“Điểm nghẽn” pháp lý khi sử dụng số dư tài khoản để bảo đảm khoản vay
31/12/2016 20:43:40
Trong thực tế cấp tín dụng, việc ngân hàng nhận bảo đảm bằng thẻ tiết kiệm của cá nhân, hay số dư tài khoản tiền gửi, tài khoản thanh toán của doanh nghiệp ngày càng phổ biến, nhất là khi đây là biện pháp bảo đảm dễ xác lập và xử lý.

Tin liên quan

Chỉ có điều, các quy định pháp luật vẫn khá nửa vời, đặc biệt khi dự thảo nghị định hướng dẫn phần quy định về các biện pháp bảo đảm trong Bộ luật Dân sự 2015 do Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo (dự thảo) vừa mới được công bố vẫn quy định cầm cố là biện pháp bảo đảm áp dụng cho thẻ tiết kiệm và bỏ ngỏ biện pháp bảo đảm đối với số dư tài khoản tiền gửi của pháp nhân và số dư tài khoản thanh toán.

Nên công nhận rõ tài sản bảo đảm là số dư tài khoản tiền gửi hay số dư tài khoản thanh toán và thế chấp là biện pháp bảo đảm áp dụng cho loại tài sản này (Ảnh: KINH LUÂN)

Sẽ có rủi ro mới khi nhận cầm cố thẻ tiết kiệm?

Trong khi định nghĩa về cầm cố trong Bộ luật Dân sự 2005 và Bộ luật Dân sự 2015 đều đặt ra yêu cầu giao tài sản cho bên nhận cầm cố thì Bộ luật Dân sự 2015 đã có cách tiếp cận hoàn toàn mới về hiệu lực đối kháng của cầm cố đối với người thứ ba.

Theo quy định tại điều 310 của Bộ luật Dân sự 2015, về nguyên tắc, cầm cố tài sản có hiệu lực đối kháng với người thứ ba kể từ thời điểm bên nhận cầm cố nắm giữ tài sản cầm cố, chứ không phải kể từ thời điểm đăng ký cầm cố như quy định cũ. Trong trường hợp một tài sản được sử dụng để bảo đảm nhiều khoản vay tại nhiều ngân hàng khác nhau thì về nguyên tắc, ngân hàng nào có biện pháp bảo đảm có hiệu lực đối kháng trước sẽ được ưu tiên thanh toán trước khi xử lý cầm cố (điều 308, Bộ luật Dân sự 2015).

Nếu như cách tiếp cận của dự thảo nghị định nói trên coi cầm cố là biện pháp bảo đảm đối với thẻ tiết kiệm thì sẽ có nguy cơ làm giảm đáng kể hiệu quả và phạm vi sử dụng của loại biện pháp bảo đảm bằng tài sản đặc biệt này.

Bởi vì trong thực tế, ngân hàng nhận cầm cố có thể không phải là ngân hàng nhận tiền gửi tiết kiệm, đặc biệt khi người gửi tiền giao dịch với ngân hàng có lãi suất tiền gửi cao và muốn sử dụng khoản tiền đã gửi này để bảo đảm cho một khoản vay của mình tại một ngân hàng khác có mức lãi suất vay cạnh tranh. Trong trường hợp này, dường như ngân hàng nhận cầm cố không “nắm giữ” được số dư tài khoản tiền gửi tiết kiệm và do đó dù giao dịch cầm cố có hiệu lực giữa ngân hàng này và bên chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm (là bên cầm cố) nhưng sẽ không có hiệu lực đối kháng với ngân hàng nhận tiền gửi tiết kiệm - vốn đang “nắm giữ” số dư tài khoản tiền gửi tiết kiệm.

Hệ quả là nếu sau thời điểm xác lập cầm cố, nếu ngân hàng nhận tiền gửi tiết kiệm lại nhận cầm cố chính thẻ tiết kiệm đó thì sẽ có quyền ưu tiên thanh toán trước ngân hàng nhận cầm cố ban đầu.

Tương tự, nếu có căn cứ thực hiện bù trừ nghĩa vụ thì ngân hàng nhận tiền gửi tiết kiệm cũng có thể thực thi quyền này của mình và khi đó ngân hàng nhận cầm cố ban đầu có thể sẽ “trắng tay”.

Giải pháp nào?

Theo khoản 7, điều 6 của Quy chế về tiền gửi tiết kiệm ban hành kèm theo Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN ngày 13-9-2004 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước được bổ sung sửa đổi năm 2006 và 2011 (Quy chế tiền gửi tiết kiệm), “thẻ tiết kiệm là chứng chỉ xác nhận quyền sở hữu của chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm hoặc đồng chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm về khoản tiền đã gửi tại tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm”. Như vậy, thẻ tiết kiệm chỉ là giấy tờ xác nhận quyền sở hữu số tiền gửi tiết kiệm chứ việc một người khác có trong tay thẻ tiết kiệm không trao cho người này các quyền của chủ tài khoản tiền gửi tiết kiệm. Thực chất tài sản bảo đảm ở đây là số dư tài khoản tiền gửi tiết kiệm, chứ không phải là thẻ tiết kiệm. Do số dư tài khoản tiền gửi tiết kiệm là tài sản vô hình (quyền tài sản) nên không thể chuyển giao về mặt vật chất cho bên nhận bảo đảm cho nên thế chấp số dư tài khoản tiền gửi tiết kiệm mới là giao dịch bảo đảm phù hợp.

Có lẽ do thuật ngữ “cầm cố thẻ tiết kiệm” được sử dụng trong Quy chế tiền gửi tiết kiệm nên ban soạn thảo dự thảo nghị định nói trên vẫn còn e ngại với việc thay đổi thuật ngữ. Tuy nhiên, nghị định về các biện pháp bảo đảm mới là văn bản pháp luật chuyên ngành và nếu nó sử dụng thuật ngữ mới thì Quy chế tiền gửi tiết kiệm sẽ phải được điều chỉnh tương ứng.

Nên công nhận rõ tài sản bảo đảm là số dư tài khoản tiền gửi hay số dư tài khoản thanh toán và thế chấp là biện pháp bảo đảm áp dụng cho loại tài sản này.

Số dư tài khoản tiền gửi hay tài khoản thanh toán (tài khoản thương mại, tài khoản giao dịch hay tài khoản vãng lai) thể hiện quyền đòi nợ của chủ tài khoản đối với ngân hàng. Pháp luật Việt Nam từ lâu đã công nhận thế chấp là biện pháp bảo đảm đối với quyền đòi nợ.

Tại Pháp và Anh - là các quốc gia có biện pháp cầm cố đặt ra yêu cầu chuyển giao tài sản tương tự như Việt Nam - cầm cố không được sử dụng đối với số dư tài khoản tiền gửi hay số dư tài khoản thanh toán dù là của cá nhân hay của pháp nhân. Chẳng hạn tại Anh, thế chấp (charge) hay chuyển giao quyền sở hữu tạm thời để bảo đảm (mortgage) mới là các biện pháp bảo đảm được pháp luật công nhận cho số dư tài khoản tiền gửi hay tài khoản thanh toán.

Trước sự không rõ ràng trong cách tiếp cận của dự thảo nghị định nói trên, một số ngân hàng đã tính đến việc nhận thế chấp quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng tiền gửi. Tuy vậy, giải pháp này dường như không phải là cách làm hay bởi sự mơ hồ dễ thấy của đối tượng của hợp đồng thế chấp này - yếu tố có thể dẫn tới rất nhiều khó khăn cả cho việc xác lập và xử lý tài sản bảo đảm. Hơn nữa, việc thế chấp này có nguy cơ vô hiệu do một nguyên tắc đang dần hình thành trong thực tiễn xét xử tại Việt Nam và nhiều nền pháp luật tiên tiến trên thế giới như Anh hay Pháp là đối với các giao dịch bảo đảm, các bên chỉ được làm những gì pháp luật có quy định.

Thiết nghĩ, ban soạn thảo dự thảo nghị định nói trên nên công nhận rõ tài sản bảo đảm là số dư tài khoản tiền gửi hay số dư tài khoản thanh toán và thế chấp là biện pháp bảo đảm áp dụng cho loại tài sản này. Đồng thời nên hoàn thiện hành lang pháp lý cho các giao dịch bảo đảm này cả trên phương diện xác lập, quản lý và xử lý. Điều đó sẽ giúp tháo gỡ được các khó khăn cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn nêu ở trên, qua đó sẽ góp phần khơi thông tín dụng trong thời gian tới.

Tiến sĩ Bùi Đức Giang, Giảng viên Công ty TNHH Tư vấn và Đào tạo BankPro 

Theo TBKTSG 

Theo: ANTT/NĐT
Thích và chia sẻ bài viết này :
Tags :
Tin liên quan
Mọi góp ý tin bài cho chúng tôi vui lòng gửi vào email: antt.toasoan@gmail.com
Đang phổ biến