Dòng sự kiện:
313.000 tỷ đồng vốn đầu tư cho hệ thống cảng biển đến năm 2030
23/09/2021 17:04:48
Phó Thủ tướng Lê Văn Thành vừa ký Quyết định 1579/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Nhu cầu vốn đầu tư cảng biển đến năm 2030 khoảng 313.000 tỷ đồng

Quyết định 1579/QĐ-TTg phân chia hệ thống cảng biển Việt Nam thành cảng đặc biệt, cảng biển loại I, II và III. Trong đó, cảng đặc biệt bao gồm cảng biển Hải Phòng và cảng biển Bà Rịa - Vũng Tàu. Cảng biển loại I sẽ có 15 cảng biển, loại II gồm 6 cảng biển và loại III với 13 cảng biển.

Về năng lực, đáp ứng nhu cầu xuất nhập khẩu hàng hóa, giao thương giữa các vùng, miền trong cả nước và hàng trung chuyển, quá cảnh cho các nước trong khu vực cũng như nhu cầu vận tải hành khách nội địa và quốc tế. Hệ thống cảng biển đáp ứng thông qua lượng hàng hóa từ 1.140 đến 1.423 triệu tấn (trong đó hàng container từ 38-47 triệu TEU); hành khách từ 10,1-10,3 triệu lượt.

Về định hướng hạ tầng giao thông kết nối, phát triển các tuyến đường sắt kết nối với cảng biển loại đặc biệt và cảng biển loại I trên hành lang Bắc - Nam. Bên cạnh đó, hình thành các bến cho phương tiện thủy nội địa trong vùng nước cảng biển. Hệ thống đường bộ cao tốc kết nối với các cảng biển loại đặc biệt, hệ thống quốc lộ, đường địa phương kết nối trực tiếp đến hệ thống cảng biển.

Năm 2020, tàu container Margrethe Maersk trọng tải tới 214,121 DWT lớn nhất thế giới lần đầu cập cảng Việt Nam, tại Cảng Quốc tế Cái Mép (Ảnh: Châu Như Quỳnh).

Phát triển cảng cạn tại các khu vực kinh tế, hành lang kinh tế, ưu tiên quy hoạch các vị trí có kết nối thuận lợi bằng vận tải đường thủy nội địa, vận tải sông pha biển, đường bộ cao tốc, đường sắt đến các cảng biển quan trọng trong các nhóm cảng biển.

Về kết cấu hạ tầng, ưu tiên phát triển các khu bến cảng cửa ngõ quốc tế Lạch Huyện (Hải Phòng), Cái Mép (Bà Rịa - Vũng Tàu). Nghiên cứu cơ chế chính sách phù hợp phát triển từng bước cảng trung chuyển quốc tế tại Vân Phong (Khánh Hòa) để khai thác tiềm năng về điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý.

Quy hoạch định hướng phát triển bến cảng Trần Đề (Sóc Trăng) phục vụ Đồng bằng sông Cửu Long để có thể triển khai đầu tư khi có đủ điều kiện; các cảng biển quy mô lớn phục vụ phát triển kinh tế-xã hội của cả nước hoặc liên vùng; các bến cảng khách quốc tế gắn với các vùng động lực phát triển du lịch; các bến cảng quy mô lớn phục vụ các khu kinh tế, khu công nghiệp; các bến cảng tại các huyện đảo phục vụ phát triển kinh tế-xã hội gắn với quốc phòng-an ninh và chủ quyền biển đảo.

Nhu cầu vốn đầu tư hệ thống cảng biển đến năm 2030 khoảng 313.000 tỷ đồng (chỉ bao gồm các bến cảng kinh doanh dịch vụ xếp dỡ hàng hóa), được huy động chủ yếu từ nguồn ngoài ngân sách, vốn doanh nghiệp và các nguồn vốn hợp pháp khác. Nguồn vốn ngân sách Nhà nước tập trung cho hạ tầng hàng hải công cộng, khu vực trọng điểm.

Hệ thống cảng biển Việt Nam gồm 5 nhóm

Theo quyết định vừa được phê duyệt, hệ thống cảng biển Việt Nam được chia ra 5 nhóm. Trong đó, nhóm 1 bao gồm: Cảng biển Hải Phòng, cảng biển Quảng Ninh, cảng biển Thái Bình, cảng biển Nam Định và cảng biển Ninh Bình.

Mục tiêu đến năm 2030, hàng hóa thông qua nhóm cảng biển số 1 là từ 305-367 triệu tấn (hàng container từ 11-15 triệu TEU) và hành khách đạt 162.000-164.000 lượt.

Kỳ vọng đến 2050, nhóm 1 sẽ đáp ứng nhu cầu thông qua hàng hóa với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng từ 5-5,3%/năm, hành khách tăng trưởng bình quân khoảng từ 1,5-1,6%/năm. Hoàn thành đầu tư khu bến cảng Lạch Huyện, Cái Lân và di dời các bến cảng trên sông Cấm phù hợp với quy hoạch phát triển thành phố Hải Phòng và đầu tư phát triển các bến cảng tại khu bến Nam Đồ Sơn - Văn Úc, Cẩm Phả, Hải Hà.

Nhóm 2 bao gồm các cảng biển trải dài từ Thanh Hóa tới Thừa Thiên Huế với mục tiêu, đến năm 2030 hàng hóa thông qua nhóm cảng biển số 2 từ 172-255 triệu tấn (hàng container từ 0,6-1 triệu TEU) và hành khách từ 202.000-204.000 lượt.

Tầm nhìn đến 2050, các cảng đáp ứng nhu cầu thông qua hàng hóa với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng từ 3,6-4,5%/năm; hành khách tăng trưởng bình quân khoảng từ 0,4-0,5%/năm. Hoàn thiện đầu tư, phát triển cụm cảng Nghi Sơn - Đông Hồi, Vũng Áng và Sơn Dương - Hòn La.

Đặc biệt trong nhóm 3, ngoài các cảng biển Quảng Nam, cảng biển Quảng Ngãi, cảng biển Bình Định, cảng biển Phú Yên, cảng biển Ninh Thuận, cảng biển Bình Thuận, cảng biển Đà Nẵng (gồm khu vực huyện đảo Hoàng Sa) và cảng biển Khánh Hòa (gồm khu vực huyện đảo Trường Sa) cũng được ra chỉ tiêu cho đến năm 2050.

Theo đó, năm 2030, hàng hóa thông qua từ 138-181 triệu tấn (hàng container đạt từ 1,8-2,5 triệu TEU), hành khách từ 1,9-2 triệu lượt. Đến 2050, nhóm cảng cần đáp ứng nhu cầu thông qua hàng hóa với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng từ 4,5-5,5%/năm, hành khách tăng trưởng bình quân khoảng từ 1,7-1,8%/năm.

Ngoài ra, nhóm 3 có mục tiêu hoàn thành đầu tư toàn bộ khu bến cảng Liên Chiểu (Đà Nẵng) và hình thành cảng phục vụ hàng hóa trung chuyển quốc tế tại Vân Phong (Khánh Hòa).

Theo quyết định 1579/QĐ-TTg, cảng biển TPHCM, cảng biển Đồng Nai, cảng biển Bà Rịa - Vũng Tàu, cảng biển Bình Dương và cảng biển Long An thuộc nhóm 4.

Là khu vực trọng điểm, nhóm 4 được kỳ vọng vào năm 2030, lượng hàng hóa thông qua khoảng 461-540 triệu tấn (hàng container từ 23-28 triệu TEU), hành khách từ 1,7-1,8 triệu lượt. Kỳ vọng năm 2050, nhóm cảng này đáp ứng được nhu cầu thông qua hàng hóa với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng từ 3,5-3,8%/năm, hành khách tăng trưởng bình quân khoảng từ 0,9-1%/năm. Hoàn thành đầu tư các bến cảng Cái Mép Hạ. Nghiên cứu hình thành các khu bến cảng mới tại Cần Giờ (trên sông Gò Gia), hoàn thành công tác di dời các bến cảng trên sông Sài Gòn và tiếp tục nghiên cứu di dời các khu bến khác phù hợp với phát triển không gian đô thị Thành phố Hồ Chí Minh.

Nhóm 5 có số lượng nhiều nhất, bao gồm 12 cảng: Cảng biển Cần Thơ, cảng biển Đồng Tháp, cảng biển Tiền Giang, cảng biển Vĩnh Long, cảng biển Bến Tre, cảng biển An Giang, cảng biển Hậu Giang, cảng biển Sóc Trăng, cảng biển Trà Vinh, cảng biển Cà Mau, cảng biển Bạc Liêu và cảng biển Kiên Giang.

Mục tiêu đến năm 2030 hàng hóa thông qua nhóm cảng biển số 5 từ 64-80 triệu tấn (hàng container từ 0,6-0,8 triệu TEU), hành khách từ 6,1-6,2 triệu lượt khách. Khoảng 20 năm sau, nhóm 5 được kỳ vọng đáp ứng nhu cầu thông qua hàng hóa với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng từ 5,5-6,1%, hành khách tăng trưởng bình quân khoảng từ 1,1-1,25%. Hình thành cảng cửa ngõ khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

Tác giả: Thế Hưng

Theo: Dân Trí
Thích và chia sẻ bài viết này :
Mọi góp ý tin bài cho chúng tôi vui lòng gửi vào email: antt.toasoan@gmail.com
Đang phổ biến