Dòng sự kiện:
Kỳ 2: “Trứng” chọi với “đá”
17/12/2014 08:30:14
ANTT.VN- So sánh lực lượng giữa Việt Nam và Mỹ trong cuộc tập kích chiến lược bằng không quân vào Hà Nội năm 1972, có thể dùng phép so sánh: “trứng chọi với đá”.

Tin liên quan

Người Mỹ đặt tên cho cuộc tập kích chiến lược bằng không quân vào Hà Nội, Hải Phòng của họ là chiến dịch Linebacker II (sút bóng trước khung thành lần hai).

Lực lượng quân sự Mỹ mạnh chưa từng có

Để thực hiện nó, Lầu Năm Góc đã huy động một lực lượng quân sự mạnh chưa từng có, kể từ sau Đại chiến Thế giới lần thứ II: Gần một nửa số máy bay ném bom chiến lược B52 của toàn nước Mỹ (193/400 chiếc); hơn một phần ba số máy bay chiến thuật của quân đội Mỹ (1077/3041 chiếc, tức là bằng lực lượng không quân của hai nước Anh và Tây Đức, là những  nước có tiềm năng quân sự mạnh nhất của châu Âu hồi ấy gộp lại); một phần tư số tàu sân bay (6/24 chiếc) cùng nhiều loại tàu khác của Hạm đội Bảy… Đó là chưa kể đến hàng trăm máy bay tiếp dầu trên không, máy bay gây nhiễu điện tử, máy bay trinh sát, và các loại máy bay chỉ huy, dẫn đường, liên lạc, cứu nạn…

máy-bay-B52

Máy bay B52 được bí mật tập trung chuẩn bị tấn công Việt Nam (Nguồn: Internet)

Tất cả những vũ khí và phương tiện chiến tranh kể trên đều thuộc loại hiện đại, tối tân nhất của Mỹ hồi đó. Hầu hết chúng đã được cải tiến và nâng cao hơn rất nhiều so với cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân ra miền Bắc nước ta lần thứ nhất (1965-1968).

Thế còn vũ khí trang bị của bộ đội Phòng không –Không quân Việt Nam?

Lấy “trứng” chọi “đá”

Về Phòng không, vào thời điểm đó, lực lượng chủ lực để đối phó với B52 của chúng ta chỉ có 6 Trung đoàn tên lửa SAM-2 (gồm 24 tiểu đoàn). Đây là loại tên lửa đất đối không, do Liên Xô (cũ) viện trợ và trang bị từ năm 1965. Tuy nhiên, vì nhiều lí do nên từ năm 1969 Liên Xô đã hạn chế viện trợ quân sự cho Việt Nam, trong đó có tên lửa SAM-2.

Sau cuộc chiến tranh phá hoại của Không quân Mỹ, bộ đội Tên lửa của ta chỉ còn số đạn dự trữ khoảng vài ngàn quả. Đó là số tên lửa “tồn kho”, có nhiều quả đạn đã bị “quá đát”, sử dụng không an toàn.

Như vậy, loại vũ khí chính mà chúng ta có thể chống lại B52 vừa cũ lại vừa thiếu. Để khắc phục tình trạng này, trước cuộc tập kích chiến lược diễn ra, ngành Kỹ thuật tên lửa Phòng không của chúng ta đã có sáng kiến “kéo dài tuổi thọ” cho toàn bộ số đạn đã “quá đát”, bằng “quy trình lắp ráp ngược”. Họ đã “hồi sinh” cho hàng ngàn quả tên lửa và kéo dài tuổi thọ của chúng thêm 48 tháng nữa… Điều đó có ý nghĩa cực kì quan trọng, bởi về cuối chiến dịch 12 ngày đêm sau này, hầu hết các trận địa tên lửa của ta đã phải tiết kiệm đạn, bắn từng quả một và chỉ “ưu tiên” dành để đánh B52; thậm chí còn có những bệ phóng tên lửa bảo vệ Hà Nội không còn một quả đạn nào!

Về Không quân, chúng ta mới chỉ có 2 Trung đoàn máy bay tiêm kích được trang bị MIG-21, nhưng hầu hết số Phi công này chưa được huấn luyện chiến đấu ban đêm và chưa hề có kinh nghiệm đánh B52.

Thêm nữa, trong vài sân bay quân sự chỉ có Nội bài là đạt tiêu chuẩn cấp I, còn lại là các sân bay cấp II và cấp III. Tất cả các sân bay chính quy này, trong chiến dịch 12 ngày đêm đã bị không quân Mỹ tập trung ném bom, đánh phá ác liệt, làm hỏng hết các đường băng cất cánh, hạ cánh cho máy bay chiến đấu.

Bởi vậy, trên thực tế Không quân ta chỉ còn có vài sân bay dã chiến bí mật mà đường băng làm bằng…đất nện. Cho nên, việc sử dụng máy bay MIG để bắn hạ B52, dù có quyết tâm cao đến mấy, cũng gần như là điều không thể.

Ngoài tên lửa SAM-2 và máy bay MIG-21, chúng ta còn có 16 Trung đoàn Pháo cao xạ. Riêng Thủ đô Hà Nội, còn có gần 200 trận địa súng tầm thấp của lực lượng dân quân tự vệ. Đầy 30 đại đội, được bố trí rải rác ở khắp miền Bắc…

Công bằng mà nói, những phương tiện vũ khí mà Lực lượng Phòng không – Không quân của Việt Nam sử dụng hồi ấy không phải là hiện đại, tiên tiến nhất mà quân đội Liên Xô, hay quân đội các nước trong phe Xã hội chủ nghĩa đã có. Trong khi đó, thời điểm trước khi cuộc quyết đấu diễn ra, lực lượng của chúng ta còn bị phân tán, xé lẻ do yêu cầu nhiệm vụ: Vừa tham gia chi viện mặt trận phía Nam, bảo vệ huyết mạch giao thông vận tải Quân khu Bốn, vùng giải phóng Quảng Trị… vừa phải sẵn sàng đánh trả các cuộc tập kích đường không của Không quân Mỹ ra miền Bắc.

Cơ quan đầu não trực tiếp chỉ huy “trận quyết đấu” của ta là Bộ Tư lệnh Phòng không – Không quân , được đặt trong một hang đá, gần thủ đô Hà Nội; dưới sự chỉ đạo của Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam. Đó là một căn phòng nhỏ, khiêm tốn, thắp sáng bằng điện ttgmáy nổ, đèn măng-xông và cả nhưng chiếc đèn bão tù mù. Tuy cũng có một số loại phương tiện máy móc cần thiết, nhưng việc tổ chức, chỉ huy vẫn phải dựa vào sức người là chính để tính toán và quyết định.

Ngược lại, để phục vụ cho cuộc tập kích chiến lược chưa từng có của mình, phía Mỹ đã vận hành cả một guồng máy chiến tranh khổng lồ, do tổng thống Mỹ trực tiếp ra lệnh. Chỉ riêng căn cứ xuất phát cho các loại máy bay chiến thuật, họ đã huy động đến 6 sân bay ở Thái Lan và 6 tàu sân bay đậu ngoài khơi Thái Bình Dương.

Còn để chuẩn bị cho việc cất cánh của máy bay chiến lược B52, người Mỹ đã sử dụng hai căn cứ đặc biệt là Utapao (Thái lan) và Andersen (trên đảo Guam giữa Thái Bình Dương). Thậm chí, để chỉ huy hai căn cứ này, Lầu Năm Góc đã quyết định thành lập cả một Bộ chỉ huy lâm thời, đặt dưới quyền của Bộ chỉ huy Không quân chiến lược và Bộ Quốc phòng Mỹ.
Ngoài 12 sân bay cho máy bay chiến thuật cất cánh  và hai căn cứ chiến lược cho B52 xuất phát nêu trên, hầu hết các căn cứ hậu cần và kỹ thuật của quân đội Mỹ ở châu Á như Clark, Subic (Philippines), Okinawa (Nhật Bản)…cũng được trưng dụng để phục vụ cho cuộc tập kích chiến lược có một không hai đó. Nói tóm lại là phía Mỹ đã huy động hết các khả năng tiềm lực quân sự cho phép của mình.

Sau này nhìn lại, các nhà nghiên cứu lịch sử quân sự thế giới khi so sánh lực lượng giữa hai bên thời điểm ấy đều không khỏi kinh ngạc: nếu chỉ xét về góc độ các loại vũ khí, trang bị, phương tiện kỹ thuật…thì lực lượng phòng thủ của Việt Nam đã thua kém rất xa so với lực lượng tấn công của mỹ cả về số lượng và chất lượng. Chính cựu Tổng thống Richard Nixon khi viết cuốn sách có tự đề “Không còn 2 Việt Nam nữa” cũng đã thừa nhận: Trong lịch sử nhân loại, chưa hề có một quốc gia nào chiếm ưu thế hơn hẳn về vũ khí như Hoa Kỳ so với Bắc Việt Nam.

Nhưng vũ khí và trang bị hiện đại đâu phải là tất cả! Người Mỹ đã thua trận, bởi họ không hiểu được điều đó. Nhất là khi đối thủ của họ của họ là Quân đội nhân dân Việt Nam! Chúng ta đã thắng không chỉ bằng lòng dũng cảm, ý chí quyết tâm, mà còn có những nhân tài và trí tuệ của cả dân tộc.
Trước Siêu pháo đài bay B52 của quân đội Mỹ, Việt Nam chống cự bằng loại vũ khí gì? (Còn tiếp)

Hoàng Hà (lược trích theo tác phẩm "Phi công Mỹ ở Việt Nam" của nhà văn Đặng Vương Hưng).

Theo: ANTT/NĐT
Thích và chia sẻ bài viết này :
Tags :
Tin liên quan
Mọi góp ý tin bài cho chúng tôi vui lòng gửi vào email: antt.toasoan@gmail.com
Đang phổ biến