Ngân hàng bành trướng hệ sinh thái: Chiếc áo “thương mại” trở nên quá chật
Càng ngày, các ngân hàng thương mại càng mang bóng dáng một tập đoàn tài chính đa ngành, từ bảo hiểm, chứng khoán, tư vấn và phát hành trái phiếu doanh nghiệp…, không đơn thuần là ngân hàng thương mại.
Cuối tháng 4/2022, VPBank sẽ tổ chức Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2022. Theo tài liệu trình Đại hội, VPBank sẽ trình cổ đông thông qua kế hoạch mua lại gần như toàn bộ vốn của Công ty cổ phần Bảo hiểm Opes. Như vậy, cùng với hợp đồng phân phối bảo hiểm nhân thọ độc quyền với AIA, VPBank lại tiếp tục tiến sâu vào thị trường bảo hiểm, cả phân khúc bảo hiểm nhân thọ lẫn phi nhân thọ.
Đầu năm nay, VPBank đã mua phần lớn cổ phần Công ty Chứng khoán ASC và đổi tên thành VPBank Securities, đồng nghĩa đẩy mạnh mảng kinh doanh chứng khoán, tư vấn phát hành trái phiếu doanh nghiệp, đầu tư chứng chỉ quỹ… Trước đó, VPBank cũng bắt tay với VinaCapital nhằm đa dạng hóa danh mục đầu tư cho khách hàng.
Kế hoạch mở rộng lĩnh vực kinh doanh của VPBank chưa dừng lại khi Ban lãnh đạo Ngân hàng vẫn tiếp tục ấp ủ nhiều kế hoạch mua bán, sáp nhập (M&A) chưa thể công bố. Với quy mô vốn điều lệ dự kiến vượt 79.000 tỷ đồng cuối năm nay, đồng thời hệ sinh thái liên tục mở rộng, VPBank hiện nay mang bóng dáng của một tập đoàn tài chính, không đơn thuần là một ngân hàng thương mại.
Những năm gần đây, MB cũng tự xưng là MB Group bởi hệ sinh thái đa dạng của mình. Hiện MB có tới 6 công ty con: Công ty Mua bán nợ MB AMC, Công ty Chứng khoán MBS, Công ty Quản lý quỹ đầu tư MB (MB Capital), Công ty cổ phần Bảo hiểm quân đội (MIC), Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ MB Ageas, Công ty Tài chính TNHH MB Shinsei. Tại Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2021, ông Lưu Trung Thái, Tổng giám đốc MB khẳng định, định hướng của ngân hàng này là xây dựng và triển khai mô hình tập đoàn tài chính ngân hàng (MB Group).
Không chỉ VPBank hay MB, nhiều ngân hàng trên thị trường ngày càng hướng tới mô hình tập đoàn. Theo đó, chỉ cần truy cập ứng dụng (app) ngân hàng, khách hàng không chỉ sử dụng dịch vụ của một ngân hàng thương mại bình thường như: thanh toán hóa đơn mua sắm, gửi tiền, vay tiền…, mà còn có thể thỏa mãn tất cả nhu cầu đầu tư như mua chứng khoán, chứng chỉ quỹ, trái phiếu doanh nghiệp, bảo hiểm…
Thậm chí, không chỉ nhắm tới mô hình tập đoàn tài chính trong nước, một số ngân hàng còn hướng tới mục tiêu trở thành tập đoàn tài chính đa quốc gia. Một số ngân hàng đã thành lập ngân hàng con ở nước ngoài, hoặc bắt tay với các tập đoàn tài chính quốc tế lập các liên doanh trong và ngoài nước nhằm nhanh chóng mở rộng phạm vi hoạt động.
Việc ngân hàng thương mại đẩy mạnh các hoạt động đầu tư mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư của ngân hàng thương mại cũng có thể tiềm ẩn nhiều rủi ro. Việc trái phiếu doanh nghiệp của nhóm Tân Hoàng Minh đổ vỡ và ngân hàng hiện nắm giữ khoảng 3.000 tỷ đồng trái phiếu của nhóm doanh nghiệp này là ví dụ điển hình của rủi ro ngân hàng đầu tư. Nếu nhà đầu tư rút vốn hàng loạt, hiệu ứng lan tỏa tới toàn thị trường rất khó lường.
Tại Mỹ, sau khủng hoảng kinh tế năm 2008, nước này đã tách bạch mô hình ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại. Tại Việt Nam, các ngân hàng trước đây hoạt động chủ yếu với bóng dáng ngân hàng thương mại, song hoạt động đầu tư của ngân hàng ngày càng mở rộng.
Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, hoạt động ngân hàng đầu tư mở rộng sẽ gây ra nhiều hệ lụy như: ngân hàng mang tiền gửi của người dân đi kinh doanh cổ phiếu, trái phiếu, rót vốn cho các dự án bất động sản… Nếu các thị trường này đổ vỡ, hậu quả sẽ rất nặng nề, giống như ở Mỹ. Trong khi đó, Luật Các tổ chức tín dụng chưa có quy định cụ thể về ngân hàng đầu tư.
Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước siết khá chặt tín dụng bất động sản, đồng thời siết cả hoạt động mua, bán trái phiếu doanh nghiệp của tổ chức tín dụng. Vì vậy, việc ngân hàng có nguy cơ đổ vỡ từ hoạt động đầu tư như lo ngại khó có thể xảy ra. Tuy nhiên, quy mô của các ngân hàng ngày càng lớn, nhu cầu của nhà đầu tư cũng ngày càng đa dạng buộc ngân hàng cần đa dạng hóa sản phẩm đầu tư tài chính phục vụ nhà đầu tư.
Với quy mô hoạt động ngân hàng đầu tư tại Việt Nam, giới chuyên gia cho rằng, chưa nhất thiết phải tách bạch ngân hàng đầu tư - ngân hàng thương mại, song việc bổ sung quy định về hoạt động ngân hàng đầu tư là rất cần thiết.
Theo TS. Cấn Văn Lực, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia cho rằng, việc bổ sung các quy định về ngân hàng đầu tư vào Luật Các tổ chức tín dụng, tiến tới xem xét thành lập ngân hàng đầu tư (tách bạch với ngân hàng thương mại) để kiểm soát rủi ro, đồng thời giúp ngân hàng đa dạng hóa sản phẩm (như trái phiếu công trình, trái phiếu tổng hợp; các loại trái phiếu doanh nghiệp được xếp hạng tín nhiệm; chứng khoán hóa trái phiếu, chứng khoán hóa tài sản…) là cần thiết.
Lợi nhuận ngân hàng quý I/2022: VPBank đầu bảng, Vietcombank á quân, VietinBank tăng trưởng âm
Trong số 13 ngân hàng TMCP được SSI ước tính lợi nhuận quý I/2022, VietinBank là ngân hàng duy nhất dự báo tăng trưởng lợi nhuận âm, song cổ phiếu lại được dự báo nằm top tăng trưởng tốt nhất.
Lợi nhuận VietinBank được dự báo tăng trưởng âm quý I/2022 (do so sánh nền cao năm 2021), nhưng cả năm dự báo vẫn tăng 22%,SSI Research vừa công bố báo cáo ước tính kết quả kinh doanh 13 ngân hàng trên sàn.
Theo đó, có 12/13 ngân hàng được dự báo kết quả lợi nhuận tăng trưởng dương bao gồm: ACB, BIDV, HDBank, MB, MSB, Sacombank, Techcombank, TPBank, Vietcombank, VIB, VPBank. Duy nhất VietinBank là ngân hàng dự báo sẽ tăng trưởng lợi nhuận âm do so sánh cùng với nền cao của quý I/2021.
Trong số các ngân hàng này, VPBank được dự báo là quán quân lợi nhuận quý I/2022 với lợi nhuận trước thuế khoảng 11.000 tỷ đồng, tăng 175% so với cùng kỳ năm trước nhờ ghi nhận đầy đủ phí trả trước từ hợp đồng bancassurance với AIA. Thêm vào đó, ngân hàng cũng có sự tăng trưởng tốt tại bảng cân đối kế toán (tăng trưởng tín dụng và huy động lần lượt đạt 7% và 12% so với cùng kỳ năm 2021).
Xếp thứ nhì là Vietcombank với lợi nhuận trước thuế ước tính đạt 9.500 - 10.000 tỷ đồng, tăng 10-16% so với cùng kỳ năm 2021. Nguyên nhân là tăng trưởng tín dụng của Vietcombank duy trì mạnh mẽ trong quý (tăng 6-7%). NIM cũng cải thiện nhờ tối ưu hóa tỷ lệ cho vay/huy động (LDR).
Ngoài ra, SSI Research cũng cho rằng, Vietcombank có thể sẽ ghi nhận phí trả trước bancassurance trong kỳ, điều này tương tự với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, chất lượng tài sản của ngân hàng cải thiện nhẹ do nợ tái cơ cấu giảm.
Đứng vị trí cuối cùng trong top 3 lợi nhuận quý I/2022 vẫn là dấu hỏi bởi ẩn số VietinBank. Vào quý I/2021, VietinBank là ngân hàng đứng top đầu lợi nhuận với hơn 8.000 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế. Quý I/2022, SSI Research cho rằng, lợi nhuận trước thuế của ngân hàng này có thể tăng trưởng âm do so sánh với nền cao năm 2021 và do chưa tính phí trả trước từ hợp đồng bancassurance với Manulife.
SSI Research không đưa ra con số ước tính lợi nhuận quý I/2022 của VietinBank, song với tăng trưởng tín dụng 7% trong quý, lợi nhuận VietinBank sẽ là con số không nhỏ.
Cùng cạnh tranh top 3 lợi nhuận quý I/2022 với VietinBank là Techcombank với lợi nhuận trước thuế trong quý dự báo đạt 6.500 – 6.700 tỷ đồng, tăng 18-21% so với cùng kỳ), nhờ tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ và chi phí tín dụng giảm.
Ở nhóm ngân hàng tiếp theo, MB là ngân hàng dẫn đầu với lợi nhuận trước thuế khoảng 5.500 tỷ đồng. Ban lãnh đạo MB cho biết, tăng trưởng tín dụng trong quý I/2022 đạt khoảng 10-11% so với đầu năm.
ACB và BIDV dự báo cũng đạt mức tăng trưởng lợi nhuận 4.200 tỷ đồng trong quý I/2022, mức tăng lần lượt 35% với ACB và23,7% với BIDV. Trong đó, tín dụng ACB tăng 5% so với đầu năm, tiến độ thu hồi nợ xấu tốt và chất lượng tài sản ổn định. BIDV tăng trưởng tín dụng 4,7% so với đầu năm, hệ số LDR được tối ưu, nợ xấu được duy trì ở mức dưới 1%.
Xét về tốc độ tăng trưởng lợi nhuận, SHB dẫn đầu nhóm ngân hàng quý I/2022 với lợi nhuận trước thuế tăng 92%, đạt 3.200 tỷ đồng nhờ tăng trưởng tín dụng 5% so với đầu năm, và tăng trưởng tiền gửi 2,5% so với đầu năm. Tỷ lệ nợ xấu ở mức 1,5% trong khi NIM ước tính ổn định.
Sacombank cũng có mức tăng trưởng lợi nhuận mạnh mẽ trong quý I/2022 với mức tăng 40-50% so với cùng kỳ (có thể đạt 1.400-1.500 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế), chủ yếu nhờ thu nhập hoạt động mạnh mẽ và kiểm soát tốt chi phí dự phòng.
MSB cũng dự báo có mức tăng trưởng lợi nhuận khá ấn tượng (tăng 31%, đạt 1.500 tỷ đồng) nhờ tín dụng tăng ở mức ,5% so với đầu năm và tỷ lệ nợ xấu được kiểm soát ở mức dưới 1,3%. Kết quả này chưa bao gồm lợi nhuận từ việc bán FCCoM.
Về cổ phiếu ngân hàng, SSI Research nhận định, các cổ phiếu có tiềm năng tăng trưởng cao trong vòng 1 năm tới là: TCB, ACB, StB, CTG, MBB...
Cuối năm 2022, nợ xấu theo Nghị quyết 42 có thể tăng lên mức 430.000 tỷ đồng
Những cơ chế, chính sách thí điểm xử lý nợ xấu nếu không được tiếp tục triển khai thì tổ chức tín dụng rất khó khăn trong việc xử lý các khoản nợ xấu theo Nghị quyết số 42/2017/QH14 (Nghị quyết số 42), khi đó dự kiến nợ xấu theo Nghị quyết số 42 có thể tăng lên mức 430.000 tỷ đồng vào cuối năm 2022 và 453.000 tỷ đồng vào cuối năm 2024 (tại thời điểm 31/12/2021 là 412.700 tỷ đồng).
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng đã cho biết thông tin trên tại phiên họp thứ 10 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, sáng 14/4.
Báo cáo tổng kết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (Nghị quyết số 42), và đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm, bà Hồng khẳng định nghị quyết đã được triển khai nghiêm túc, đúng mục tiêu, định hướng và đạt được kết quả quan trọng.
Tổng nợ xấu chưa xử lý xác định theo Nghị quyết số 42 của toàn hệ thống các tổ chức tín dụng đến 31/12/2021 là 412.700 tỷ đồng, giảm 17,21% so với thời điểm Nghị quyết số 42 có hiệu lực (15/8/2017).
Một trong những kết quả nổi bật được Thống đốc báo cáo là kết quả xử lý nợ xấu nội bảng xác định theo Nghị quyết số 42 thông qua hình thức khách hàng tự trả nợ là 148.000 tỷ đồng (chiếm 38,93% tổng nợ xấu theo Nghị quyết số 42 đã xử lý), cao hơn nhiều so với tỷ trọng nợ xấu được xử lý do khách hàng tự trả nợ/tổng nợ xấu trước khi Nghị quyết số 42 có hiệu lực (tỷ trọng nợ xấu được xử lý do khách hàng trả trung bình năm từ 2012 - 2017 nợ/tổng nợ xấu là khoảng 22,8%).
Kết quả xử lý, bán, phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ của tổ chức tín dụng và VAMC đạt khoảng 77.195 tỷ đồng, chiếm 20,3% tổng nợ xấu xác định theo Nghị quyết số 42 đã được xử lý (trong khi đó, lũy kế từ năm 2012-2017, kết quả xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ chỉ đạt 19.524 tỷ đồng).
Thống đốc cũng nêu rất nhiều khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện Nghị quyết số 42 từ công tác thực thi, phối hợp triển khai, hướng dẫn từ các bộ, ngành và địa phương và từ chính các quy định tại nghị quyết số 42.
Chẳng hạn, Điều 7 Nghị quyết số 42 quy định “Tại hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho tổ chức tín dụng có quyền thu giữ tài sản bảo đảm…”. Tuy nhiên, các hợp đồng bảo đảm được ký kết trước thời điểm Nghị quyết số 42 có hiệu lực đều không quy định trực tiếp nội dung này (vì tại thời điểm hợp đồng được ký kết thì Nghị định 163/2006/NĐ-CP không quy định nội dung này).
Do vậy, để đủ điều kiện áp dụng quyền thu giữ tài sản bảo đảm theo quy định trên, các tổ chức tín dụng phải đàm phán lại với bên vay/bên bảo đảm để ký lại hợp đồng bảo đảm có điều khoản thu giữ. Tuy nhiên, khách hàng thường không hợp tác (không ký lại nội dung điều chỉnh hợp đồng bảo đảm có điều khoản thu giữ), vì vậy, các tổ chức tín dụng rất khó để thực hiện việc thu giữ tài sản bảo đảm theo Điều 7 Nghị quyết số 42.
Về phạm vi áp dụng thủ tục rút gọn (Điều 8 Nghị quyết số 42), Thống đốc nêu, hiện nay, quy định tại Nghị quyết số 42 chỉ áp dụng thủ tục rút gọn đối với tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm, tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của tổ chức tín dụng, VAMC mà chưa quy định được áp dụng thủ tục rút gọn đối với các tranh chấp hợp đồng tín dụng của các tổ chức tín dụng với khách hàng vay. Trong khi đó, các tranh chấp của các khoản nợ xấu tại các tổ chức tín dụng hầu hết là các tranh chấp về hợp đồng tín dụng. Do đó, việc không quy định thủ tục rút gọn đối với các tranh chấp về hợp đồng tín dụng gây rất nhiều khó khăn, hạn chế cho các tổ chức tín dụng trong việc xử lý nợ xấu.
Tuy nhiên, Thống đốc không đề nghị sửa những vướng mắc trên mà chỉ đề nghị được kéo dài thời hạn áp dụng Nghị quyết số 42.
Bà Hồng nói, Nghị quyết số 42 sẽ hết hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/8/2022. Khi hết hiệu lực thi hành, toàn bộ cơ chế về xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42 đang được thực hiện sẽ chấm dứt, việc xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng sẽ thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan, không tiếp tục được ưu tiên áp dụng một số chính sách quy định tại Nghị quyết số 42.
Những cơ chế, chính sách thí điểm xử lý nợ xấu nếu không được tiếp tục triển khai có thể dẫn đến việc: Kéo dài quá trình xử lý nợ xấu, ảnh hưởng đến hiệu quả công tác cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng; các tổ chức tín dụng thiếu nguồn lực hỗ trợ tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế và giảm mặt bằng lãi suất. Ảnh hưởng nữa là sẽ không khuyến khích, không huy động được các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia cơ cấu lại các tổ chức tín dụng; phát sinh những tranh chấp giữa tổ chức tín dụng và khách hàng do còn có sự bất cập, thiếu đồng nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu.
Tổ chức tín dụng rất khó khăn trong việc xử lý các khoản nợ xấu theo Nghị quyết số 42, khi đó dự kiến nợ xấu theo Nghị quyết số 42 có thể tăng lên mức 430 nghìn tỷ đồng vào cuối năm 2022 và 453.000 tỷ đồng vào cuối năm 2024 (tại thời điểm 31/12/2021 là 412.700 tỷ đồng).
Như vậy, việc kéo dài thời hạn áp dụng Nghị quyết số 42 là cơ sở pháp lý để xử lý nợ xấu còn tồn đọng và những khoản nợ theo Nghị quyết 42 bị chuyển thành nợ xấu do tác động của đại dịch Covid-19, Thống đốc trình bày.
Chủ tịch Quốc hội: Gấp rút nghiên cứu sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng
Sẽ không có Luật xử lý nợ xấu mà cần gấp rút nghiên cứu Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nhấn mạnh khi Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023, điều chỉnh năm 2022, sáng 16/3.
Tại đây, Chính phủ đề nghị bổ sung dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu vào chương trình của năm nay.
Nội dung này đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thảo luận và đồng ý bổ sung vào Chương trình, trình Quốc hội cho ý kiến và thông qua tại kỳ họp thứ 3 (tháng 5/2022).
Liên quan đến vấn đề này, xem xét toàn bộ chương trình xây dựng dự án luật, pháp lệnh của hai năm 2022 - 2023, Chủ tịch Quốc hội đề nghị Chính phủ gấp rút nghiên cứu Luật sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng, vì "chưa thấy dòng nào nói về chuyện này".
Ông Vương Đình Huệ khẳng định lại thông điệp đã được nêu khi Quốc hội cho ý kiến về gia hạn Nghị quyết số 42 là sẽ không có Luật xử lý nợ xấu, chỉ cho phép kéo dài Nghị quyết 42 đến hết năm 2023.
“Sau thời điểm này nếu không sửa đổi Luật Các Tổ chức tín dụng thì sẽ đình chỉ hiệu lực của Nghị quyết 42 và không sửa đổi bổ sung nghị quyết 42”. Nhấn mạnh như trên, Chủ tịch Quốc hội cho biết Thường vụ Quốc hội đã thảo luận kỹ vấn đề này, việc này cũng phù hợp với thông lệ quốc tế.
"Kinh nghiệm quốc tế họ cũng thế. Anh em chúng tôi cũng đi khắp 4 phương trời nghiên cứu rồi chứ không phải lạ lẫm gì chuyện này. Như Công ty quản lý tài sản VAMC tồn tại ở các nước chỉ 3 đến 5 năm là dẹp, hết sứ mệnh lịch sử là thôi. Tình huống đặc biệt mới có loại đó. Chúng ta không xây dựng Luật Nợ xấu thì có nghị quyết xử lý nợ xấu, sau phải trở lại những điều kiện bình thường", Chủ tịch phát biểu.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ gợi ý, những nội dung gì trong nghị quyết 42 đó có thể tổng kết đưa thành luật trong Luật Tổ chức tín dụng được thì đưa vào. "Hiện nay xử lý nợ xấu có 2 hệ thống luật. Một nợ xấu thuộc phạm vi của Nghị quyết 42 thì xử lý theo Nghị quyết 42. Còn loại nợ xấu nữa không thuộc Nghị quyết 42 thì đang xử lý theo Luật Các tổ chức tín dụng và luật có liên quan. Thực tế như thế, việc này là việc thế giới người ta đã từng làm, mình đã làm và có kết quả nhưng không bao giờ được kéo dài chuyện này. Vừa rồi các đồng chí xin kéo dài Nghị quyết 42 thêm 2 năm thì Thường vụ Quốc hội đồng ý là hết 2023. Việc này cũng tùy Chính phủ, Chính phủ trình thì sẽ lấp được khoảng trống, để 2 hệ thống này chập vào với nhau, nếu Chính phủ không trình thì vui lòng thực hiện theo Luật Tổ chức tín dụng hiện hành, lúc đấy không bao giờ có chuyện Thường vụ Quốc hội trình để kéo dài gì nữa, nói rõ như thế", Chủ tịch Quốc hội tỏ rõ sự dứt khoát.
Về dự án Luật sửa đổi bổ sung Luật Bảo hiểm Y tế, được Chính phủ đề nghị bổ sung vào chương trình năm 2023, Chủ tịch Quốc hội cho rằng đây là dự án luật rất quan trọng, nhạy cảm, nhiều vấn đề còn nhận thức khác nhau. Việc quản lý quỹ bảo hiểm y tế cũng đang có những vấn đề đặt ra như chủ tịch quỹ là Bộ trưởng Tài chính, nhưng quản lý Nhà nước về lĩnh vực Bảo hiểm Y tế lại do Bộ Y tế. Vì vậy, khi thi hành luật này sẽ nảy sinh những “cọ xát về lợi ích”. Nhiều nội dung cơ quan bảo hiểm kiến nghị nhưng các bộ không nghe.
Ngoài ra, phạm vi chi của quỹ bảo hiểm y tế cũng đang có vấn đề. “Như việc Luật Khám chữa bệnh muốn đưa thực phẩm chức năng vào danh mục của Luật Dược, đưa y tế dự phòng vào Luật Khám chữa bệnh và Luật Bảo hiểm Y tế”, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nói và cho rằng việc này trái với nguyên lý và thông lệ trên thế giới.
Vì vậy, Chủ tịch Quốc hội cho rằng những vấn đề này phải được nghiên cứu rất thấu đáo, do đó cũng đề nghị chưa bổ sung các nội dung vào chương trình làm việc nếu chưa được chuẩn bị kỹ.
Tại phiên thảo luận, Chủ tịch Quốc hội cũng đề nghị các ủy ban, Hội đồng Dân tộc, tăng cường trách nhiệm, nghiêm túc hơn nữa trong việc thực hiện các quy định văn bản quy phạm pháp luật. Nội dung chưa đủ điều kiện, thủ tục hồ sơ dứt khoát chưa báo cáo Thường vụ Quốc hội, tránh việc “đưa ra rồi mới thấy có nhiều ý kiến khác nhau quá, phải trả đi trả lại”.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ còn nhấn mạnh yêu cầu “không đẩy khó khăn, vướng mắc cho Quốc hội, không đẩy khó khăn từ các ủy ban, hội đồng Dân tộc lên Thường vụ Quốc hội”.
Qua Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long, ông Huệ cũng cho rằng Chính phủ có lẽ phải tăng thêm thời gian họp cho mỗi phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật, bởi vì một dự án luật mà được vài chục phút thảo luận thì mới nói đến vấn đề thủ tục thôi, chưa thể đi sâu được vào những vấn đề quan trọng. Nhất là những vấn đề còn ý kiến khác nhau thì Chính phủ phải thảo luận cho thấu đáo, thấu tình đạt lý rồi mới bắt đầu trình, vì thế quan trọng là phải tăng cường thời gian họp, Chủ tịch Quốc hội đề nghị.
Đo đếm hiệu quả “phát súng” đầu tiên của ngân hàng vào bất động sản
Việc siết tín dụng như “phát súng” đầu tiên của ngân hàng vào thị trường bất động sản. Dù vậy, không có nghĩa là doanh nghiệp và người vay mua nhà để ở sẽ gặp khó.
Để ngăn chặn tình trạng cấp tín dụng, giải ngân ồ ạt đối với mảng cho vay bất động sản, một số ngân hàng đã có động thái tạm dừng hoặc hạn chế cho vay đối với lĩnh vực này.
Chẳng hạn, Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank), đã ban hành công văn trên toàn hệ thống là sẽ không cấp tín dụng đối với lĩnh vực bất động sản từ nay đến hết tháng 6/2022. Thay vào đó, Ngân hàng tập trung tín dụng vào một số lĩnh vực sản xuất, ưu tiên nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, ứng dụng công nghệ cao và các ngành thương mại, dịch vụ có giá trị gia tăng gia tăng cao như xuất khẩu, dịch vụ, logistics…
Trước đó, Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank) cũng thông báo kiểm soát hạn mức giải ngân đối với các khoản vay mua bất động sản đã có giấy chứng nhận. Theo đó, ngân hàng này sẽ tạm dừng giải ngân khoản vay mua bất động sản (gồm chưa/đã có giấy chứng nhận) kể từ ngày 25/3. Các đơn vị kinh doanh trao đổi và đàm phán với khách hàng để dời lịch giải ngân các khoản vay sang ngày 1/4.
Việc siết vốn tín dụng đổ vào lĩnh vực này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến thị trường, bởi doanh nghiệp dù có tài chính mạnh đến đâu cũng cần ngân hàng hỗ trợ.
Ngoài ra, nhiều ngân hàng như Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình đã hạn chế cho vay vốn bất động sản từ năm 2021.
Thực tế, trong những năm qua, Ngân hàng Nhà nước luôn phát đi cảnh báo và kiểm soát chặt hoạt động cho vay bất động sản, đồng thời yêu cầu các ngân hàng dành một tỷ lệ nhất định trong tổng dư nợ để cho vay lĩnh vực này nhằm giảm rủi ro. Vì vậy, tăng trưởng cho vay với lĩnh vực bất động sản đã dần hạ nhiệt, từ mức trên 26% trong năm 2018, còn 12% trong năm 2020 và duy trì ở mức này trong năm 2021.
Ngay sau khi các ngân hàng có động thái “siết” tín dụng vào bất động sản, nhiều nhà đầu tư và doanh nghiệp trong ngành lo ngại sẽ tác động tiêu cực đến thị trường bất động sản, bởi phần lớn nhà đầu tư hiện nay sử dụng đòn bẩy tài chính.
“Việc siết vốn tín dụng đổ vào lĩnh vực này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến thị trường, bởi doanh nghiệp dù có tài chính mạnh đến đâu cũng cần ngân hàng hỗ trợ. Trong bối cảnh bị siết như hiện nay, doanh nghiệp lớn phải chuyển hướng tìm nguồn khác, trong khi doanh nghiệp có tài chính yếu hoặc doanh nghiệp nhỏ sẽ rất khó khăn vì không xoay được vốn”, lãnh đạo một doanh nghiệp bất động sản tại quận Bình Thạnh, TP.HCM chia sẻ.
Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư về vấn đề này, một số chuyên gia trong ngành cho rằng, việc tạm dừng giải ngân cho vay bất động sản sẽ ảnh hưởng mạnh nhất đến những người đang dùng đòn bẩy tài chính lớn với kỳ vọng bất động sản năm 2022 sẽ tăng trưởng mạnh. Đây có thể là doanh nghiệp hoặc các nhà đầu tư lớn, những người đầu tư bất động sản theo kiểu lướt sóng.
Lý do là, những khu vực sốt đất, giá đất tăng nóng hoặc những dự án không có giấy tờ pháp lý đàng hoàng sẽ khó lòng tiếp cận vốn vay ngân hàng như trước. Bản thân các ngân hàng cũng rất sợ rủi ro pháp lý và rủi ro nợ xấu như trong quá khứ, nên việc thẩm định dự án, thẩm định tài chính của doanh nghiệp bất động sản cũng phải làm rất chặt chẽ.
Dù vậy, điều đó không có nghĩa là những người muốn vay vốn mua nhà để ở sẽ bế tắc. Với các dự án đầu tư xây dựng chung cư, khu dân cư có pháp lý hoàn chỉnh, liên kết với ngân hàng thương mại để được cấp vốn vay rồi bán trên thị trường, thì khách hàng vẫn có thể được ngân hàng tiếp tục cho vay.
Chẳng hạn, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) không siết chặt, mà chỉ hạn chế cho vay đối với kinh doanh bất động sản. Cụ thể, bên cạnh việc tập trung ưu tiên vốn cho lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, Agribank vẫn cho vay đáp ứng nhu cầu thật về nhà ở như mua nhà, xây, sửa nhà của người dân một cách bình thường.
“Các doanh nghiệp lớn kỳ vọng dựa vào vốn vay ngân hàng để phát triển dự án sẽ bị ảnh hưởng nặng vì không có vốn để phát triển dự án. Những doanh nghiệp có dự án đang hình thành và đang bán sẽ bị ảnh hưởng vì người mua nhà bị động hơn, song tác động lên nhóm này là không lớn. Còn đối với những nhà đầu tư dài hạn, nhóm có dự trù tài chính tốt, sẽ không bị ảnh hưởng nhiều, bởi họ đã có kế hoạch dài hơn”, TS. Đinh Thế Hiển, chuyên gia kinh tế nói.
Dưới góc độ là lãnh đạo doanh nghiệp, ông Ngô Đức Sơn, Tổng giám đốc Công ty cổ phần DRH Holdings cho biết, việc doanh nghiệp sử dụng vốn của ngân hàng để phát triển dự án là câu chuyện cực chẳng đã, bởi chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp Việt Nam rất cao, tùy thuộc theo điều kiện đảm bảo và tiến độ giải ngân. Đây cũng chính là một trong những lý do khiến doanh nghiệp Việt yếu kém, kinh doanh không có lãi bằng các đơn vị phát triển của nước ngoài.
“Nếu tất cả đều không được vay hoặc điều kiện vay khắt khe thì rủi ro sẽ ít hơn, thị trường sẽ tự điều tiết. Như vậy, sẽ không còn hiện tượng huy động vốn của khách hàng bằng việc bán lúa non, mà sẽ là sân chơi của doanh nghiệp thực sự có tiềm lực tài chính ổn định”, ông Sơn nói.
Siết trái phiếu doanh nghiệp: Sức khỏe doanh nghiệp bất động sản vẫn tương đối an toàn
Huy động vốn qua kênh cổ phiếu sẽ tăng mạnh, trái phiếu sẽ giảm lượng nhưng tăng chất.
Theo FiinRatings, các sự kiện đang diễn ra trên thị trường trái phiếu có thể sẽ làm cho thị trường trái phiếu doanh nghiệp giảm đáng kể về quy mô phát hành vào năm 2022. FiinRatings nhận định kênh trái phiếu doanh nghiệp trong nửa cuối 2022 và năm 2023 sẽ có 3 sự thay đổi chính.
Thứ nhất, các doanh nghiệp có nền tảng cơ bản tốt, không phải là các công ty được lập ra để huy động vốn, nhất là các công ty niêm yết vốn có sự minh bạch tốt hơn vẫn sẽ đẩy mạnh các hoạt động phát hành trái phiếu.
Thứ hai, huy động vốn qua thị trường cổ phiếu thông qua việc phát hành thu hút vốn cổ phần mới có khả năng sôi động hơn mặc dù thị trường chứng khoán vẫn trong giai đoạn chưa rõ xu hướng và có phần kém sôi động.
Kênh trái phiếu được kỳ vọng vẫn là kênh huy động vốn hiệu quả trong bối cảnh lãi suất mặc dù có dấu hiệu tạo đáy nhưng vẫn ở mức rất thấp trong nhiều năm qua.
Mặt khác, thị trường trái phiếu doanh nghiệp cũng được hưởng lợi khi kênh tín dụng bất động sản từ ngân hàng bị hạn chế tăng trưởng, kể cả trước khi Thông tư 16 của Ngân hàng Nhà nước đi vào hiệu lực nhằm hạn chế tín dụng bất động sản thông qua hình thức mua trái phiếu của các ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên, hoạt động này chỉ phù hợp với các tổ chức phát hành là công ty đại chúng có sự minh bạch về thông tin theo các quy định hiện hành áp dụng cho công ty đại chúng và bài toán pha loãng sở hữu của cổ đông không phải là vấn đề lớn của các chủ doanh nghiệp.
Thứ ba, sự thay đổi về chất của thị trường trái phiếu doanh nghiệp. Thể hiện ở việc phát hành đại chúng sẽ tăng trưởng mạnh về quy mô, nhất là từ các doanh nghiệp có hồ sơ kinh doanh tốt và chủ động minh bạch hồ sơ tín dụng của họ trên thị trường.
Ngoài ra, phát hành riêng lẻ vẫn sẽ được thực hiện mặc dù có thể kém sôi động hơn các năm qua và hướng đến cơ sở nhà đầu tư rộng rãi hơn, bao gồm nhà đầu tư cá nhân chuyên nghiệp, các định chế tài chính như bảo hiểm, quỹ trái phiếu, quỹ hưu trí... thay vì tập trung phần lớn vào ngân hàng thương mại và công ty chứng khoán như thời gian vừa qua.
Cùng với các công ty chứng khoán, các ngân hàng thương mại là bên mua TPDN lớn nhất trên thị trường sơ cấp. Tuy nhiên, lượng mua TPDN của khối ngân hàng đang giảm dần sau Thông tư 16 của NHNN.
Thông tư 16 của Ngân hàng Nhà nước không chỉ giúp kiểm soát chất lượng nợ xấu nhất là với các ngân hàng có chất lượng tài sản yếu, kiểm soát quy mô tín dụng bất động sản, mà quan trọng hơn là kiểm soát các hoạt động luân chuyển tín dụng giữa hai kênh trái phiếu và tín dụng cho vay của ngân hàng thông qua các nghiệp vụ tái tài trợ, tái cấu trúc vốn hoặc hay có thể là “đảo nợ” giữa hai kênh này.
Chính vì vậy, FiinRatings cho rằng, các sự kiện hiện nay có khả năng sẽ không có tác động quá lớn đến vấn đề chất lượng tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại.
Dù vậy, FiinRatings cũng lưu ý, yếu tố này sẽ là một rủi ro thấp nếu như những vấn đề liên quan đến các tổ chức phát hành hiện đang được xử lý hiện nay được khư trú và tổ chức phát hành cũng như các bên liên quan như đơn vị bảo lãnh nghĩa vụ trả nợ nỗ lực thực hiện các cam kết về nghĩa vụ trả nợ với một lộ trình rõ ràng nhằm đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư.
Điều này trở nên quan trọng bởi tính đại chúng của kênh đầu tư trái phiếu doanh nghiệp đã không chỉ lớn về quy mô mà còn có sự tham gia mạnh mẽ của nhà đầu tư cá nhân chuyên nghiệp và cá nhân nhỏ lẻ thông qua hoạt động phân phối lại trái phiếu được phát hành dưới hình thức phát hành riêng lẻ từ các tổ chức liên quan như tư vấn và phân phối trên thị trường trong thời gian qua.
Nhìn chung, ở góc độ chất lượng tín dụng ngân hàng, FiinRatings kỳ vọng quy mô này có thể được duy trì hoặc tiếp tục tăng nhưng có sự chọn lọc ở những ngân hàng có hạn mức tăng trưởng tín dụng cao, được hỗ trợ bởi chất lượng tài sản tốt hơn (nợ xấu dưới 3 theo đánh giá của Ngân hàng Nhà nước) và có mức độ tín dụng phân bổ cho ngành bất động sản vẫn ở mức thấp theo các quy định của Ngân hàng Nhà nước nói chung và những yêu cầu cụ thể của Thông tư 16 đã đi vào hiệu lực gần đây từ 15/1/2022.
FiinRatings cho rằng,sức khỏe tài chính các công ty bất động sản tổng thể vẫn ở mức tương đối an toàn ngoại trừ các công ty dự án được lập ra nhằm mục đích huy động vốn trái phiếu hoặc vay vốn tín dụng ngân hàng, ngành bất động sản nói chung và phân khúc bất động sản dân cư nói riêng vẫn cơ bản có mức độ đòn bẩy tài chính ở mức thấp tương đối so với giai đoạn năm trước.
Điều này thể hiện qua một số chỉ tiêu chủ chốt khi đánh giá năng lực tín dụng bao gồm: Hệ số Nợ vay/Vốn chủ sở hữu của các đơn vị bất động sản dân cư niêm yết hiện đang ở mức 0,7 lần; Hệ số đánh giá năng lực trả lãi EBITDA/Chi phí lãi vay ở mức 1,8 lần; và hệ số bao phủ nợ ngắn hạn ở mức 3,8 lần vào cuối 2021.
Điểm đáng lưu ý là tình hình sức khỏe tài chính được ghi nhận trong bối cảnh tổng số lượng căn hộ bán được tại thị trường khu vực Hà Nội và TP.HCM đã giảm chỉ còn chỉ còn chưa đến một nửa từ mức 29 nghìn căn/năm trong hai năm diễn ra Covid-19, so với mức 66 nghìn căn/năm trong giai đoạn năm trước đó từ 2015-2019.
Số dư nợ vay bằng ngoại tệ bao gồm trái phiếu của riêng các doanh nghiệp bất động sản niêm yết Việt Nam hiện ở mức khoảng 4 tỷ USD. Đây là một con số không lớn xét trên quy mô tín dụng của ngành bất động sản cũng như rủi ro an toàn tài chính quốc gia.
Tuy nhiên, những tác động từ rủi ro tín dụng bất động sản có thể làm cho mức điểm xếp hạng quốc gia của Việt Nam trên thị trường vốn quốc tế và của tất cả các ngành còn lại sẽ có thể bị ảnh hưởng.
Vấn đề quan trọng theo FiinRatings là áp lực trả nợ trái phiếu đến hạn trong 2-3 năm tới đây. Bởi lẽ, quy mô dư nợ của ngành bất động sản khoảng 189 nghìn tỷ đồng vào cuối năm 2021 và 73% giá trị này sẽ có điểm rơi đáo hạn vào 3 năm tới đây (2022 – 2024).
"Điều này không chỉ tạo áp lực trả nợ lớn hơn của các doanh nghiệp bất động sản trong bối cảnh dần hồi phục sau Covid-19 và trước những thay đổi pháp lý và những sự kiện gần đây mà theo chúng tôi còn tác động đến rủi ro thanh khoản của các đại lý phân phối có cam kết mua lại trái phiếu, chính là các định chế tài chính như công ty chứng khoán và ngân hàng", FiinRatings nhìn nhận.
Ngoài ra, theo FiinRatings áp lực trả nợ này có thể tác động đến rủi ro của thị trường cổ phiếu do cổ phiếu được cầm cố để làm đảm bảo cho trái phiếu hoặc được cầm cố để lấy nguồn mua trái phiếu chất lượng thấp hoặc có vấn đề như các cơ quan quản lý đã chỉ ra.
Để tránh các rủi ro không đánh có, FiinRatings cho rằng, cơ quan quản lý phải giải quyết ổn thoả quyền lợi của các nhà đầu tư trong các lô trái phiếu đang trong quá trình xử lý và có thể là ở cả một số tổ chức phát hành khác theo kết luận của cơ quan quản lý nhà nước được đảm bảo thu hồi một phần hoặc toàn bộ gốc và lãi hoặc có lộ trình rõ ràng được thông tin minh bạch đến trái chủ hiện đang sở hữu.
Với mô hình đã được chuẩn hóa, FiinRatings cho rằng, hiện có khoảng 35% các doanh nghiệp bất động sản niêm yết có mức điểm sơ bộ nằm trong khu vực “đầu tư” tức có năng lực Tương đối tốt để đáp ứng các nghĩa vụ tài chính. Dù vậy, FiinRatings cho biết thêm, vẫn có 70% số doanh nghiệp bất động sản niêm yết có mức điểm sơ bộ ở mức “có tính đầu cơ” tức là từ BB+ trở xuống và tức là có khả năng đáp ứng nghĩa vụ tài chính ở mức Vừa phải hoặc Yếu theo thang điểm xếp hạng tín nhiệm của FiinRatings.
Tác giả: T.L
- 1. Australia: Khủng hoảng thiếu nguồn cung nhà ở ngày càng trầm trọng
- 2. Đất ngoại thành Hà Nội sắp tấp nập đấu giá, khởi điểm chỉ hơn 6 triệu đồng/m2
- 3. Đất rừng tỉnh ven Hà Nội bán giá bát phở mỗi m2, hé lộ mục đích phía sau
- 4. Trầy trật đòi tiền mua nhà tại dự án ‘ma’ Lancaster Lincoln
- 5. Tháo dỡ nhiều biệt phủ xây dựng trái phép trên núi
- Chỉ còn một nửa lượng dầu dự trữ, Mỹ có sẵn sàng trước một cuộc khủng hoảng?
- Các bộ ngành đồng thuận, sẽ trình phương án nghỉ Tết Âm lịch 7 ngày
- HDBank sẽ tham gia cổ phần Công ty chứng khoán
- Nước về hồ nhiều, Thuỷ điện–Điện lực 3 (DRL) báo lãi 14,4 tỷ đồng trong quý III/2023
- Truy tố người mẹ và nhân tình hành hạ, ép cháu bé 3 tuổi hút ma túy