Dòng sự kiện:
Quản lý nợ công: Vấn đề cấp bách
08/06/2016 17:38:05
ANTT.VN - Theo các Tổ chức quốc tế và trong nước, khả năng vỡ nợ của Việt Nam là khá thấp. Tuy nhiên, nợ công vẫn đang là một vấn đề cấp bách.

Tin liên quan

Theo báo cáo của Trung tâm nghiên cứu Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam – BIDV mới đây, trong giai đoạn 2011 - 2015, nợ công gia tăng nhanh chóng với mức 16,7%/năm.

Cuối năm 2015, dư nợ công đã lên đến 2.608 nghìn tỷ đồng số tuyệt đối, gấp 1,9 lần so với cuối năm 2011 (1.393 nghìn tỷ đồng) và số tương đối, nợ công/GDP ở mức 62,2%, áp sát ngưỡng kiểm soát 65% của Quốc hội.

Đáng chú ý, theo nhiều chuyên gia, quy mô nợ công thực tế có thể đã cao hơn so với mức công bố do cách thức xác định nợ công của Việt Nam và một số tổ chức quốc tế uy tín có sự khác biệt.

Căn cứ theo tiêu chuẩn quốc tế, nhiều chuyên gia đưa ra ước tính và cho rằng tỷ lệ nợ công/GDP của Việt Nam đã vượt mức 100%.

Theo thông lệ quốc tế, ngưỡng nợ công tối ưu (nhằm đảm bảo nợ công là động lực giúp tăng trưởng kinh tế) thông thường cho các nước phát triển là 90%, các nước đang phát triển có nền tảng tốt là 60% và có nền tảng kém là 30-40%. Vì vậy, mức ngưỡng nợ công/GDP được Quốc hội đề ra là 65% phù hợp với thông lệ quốc tế; và việc vượt ngưỡng tối ưu có thể tiềm ẩn rủi ro.

Nợ công đang là vấn đề cấp bách

Việt Nam đang gặp khó khăn trong quản lý nợ công về cơ cấu và kỳ hạn.

Trước đây, nợ công hầu hết là nợ nước ngoài hay vốn vay ODA với lãi suất từ 1% đến dưới 3%.

Từ năm 2010, Việt Nam gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình nên nợ nước ngoài có mức độ ưu đãi giảm dần. Vì vậy, nợ công dịch chuyển sang nguồn vay trong nước, tăng từ 40% năm 2011 lên 57,1% năm 2015.

Cụ thể, nợ nước ngoài đạt bình quân 3 tỷ USD/năm, tương đương 11% tổng vốn đầu tư toàn xã hội hay 17% tổng vốn đầu tư từ NSNN. Việc quản lý nguồn vốn này còn tồn tại một số hạn chế như: quy trình và thủ tục quản lý chương trình và dự án ODA còn phức tạp; nhiều dự án chậm tiến độ, trong những năm qua, tỷ lệ giải ngân vốn ODA chỉ đạt khoảng 71% tổng vốn đã ký kết.

Nợ công trong nước thực hiện chủ yếu qua phát hành TPCP với lượng phát hành giai đoạn 2011 – 2015 đã tăng gấp 2,5 lần giai đoạn 2006 – 2010. Trong 3 năm đầu giai đoạn, TPCP kỳ hạn ngắn (1-3 năm) chiếm khoảng 77% khối lượng phát hành hàng năm, dẫn đến việc một lượng lớn TPCP đến hạn thanh toán và Chính phủ đang phải liên tục phát hành TPCP mới do NSNN không thể đáp ứng.

Nhằm tránh rủi ro trên, Quốc hội đưa ra quy định về kỳ hạn TPCP là trên 5 năm vào năm 2015, theo đó, tỷ trọng TPCP kỳ hạn dài đã tăng lên 46%. Tuy nhiên, điều này cũng gây ra bất cập cho người mua chính có nguồn vốn huy động ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn, chi phí vốn của nền kinh tế có xu hướng tăng theo lãi suất TPCP dài hạn.

Việc sử dụng nợ công còn bất cập và rủi ro

Theo WB, ICOR của Việt Nam trong giai đoạn 2001 – 2005 là 4,88; giai đoạn 2006 - 2010 lên đến 6,96 và sau 5 năm, vẫn ở mức 6,92 vào giai đoạn 2011 - 2014, chỉ đứng sau Ấn Độ là 7,31 tại Châu Á.

Một phần đáng kể của nợ công được sử dụng để trả nợ thay cho đầu tư phát triển. Việc dành đến 14%-16% dư nợ công trong kỳ để trả nợ gây hạn chế đến đầu tư phát triển và chi để tăng NSLĐ, giáo dục, y tế và các lĩnh vực thiết yếu khác.

Cơ cấu chi ngân sách không bền vững, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng nợ công. Công tác quản lý nợ công có bước tiến nhưng vẫn còn hạn chế, việc phân bổ mang tính chủ quan, dàn trải, hiệu quả thấp, số liệu thống kê không thống nhất, thiếu tính kịp thời, đặc biệt, việc quản lý ODA vẫn còn khá phức tạp.

Theo các Tổ chức quốc tế và trong nước, khả năng vỡ nợ của Việt Nam là khá thấp. Tuy nhiên, nợ công vẫn đang là một vấn đề cấp bách.

Cụ thể, nghĩa vụ trả nợ nước ngoài trung dài hạn/thu NSNN đã tăng lên 22,3%, có nguy cơ tiến sát vượt ngưỡng cảnh báo (ngưỡng an toàn 25%).

Nghĩa vụ phải trả nợ tăng nhanh trong khi nguồn trả nợ công không bền vững. Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chỉ tiêu Nghĩa vụ trả nợ/thu NSNN tăng dẫn đến hệ quả tình trạng vay để trả nợ gốc ngày càng tăng tuy nhiên khả năng gia tăng thu ngân sách/GDP giảm mạnh, cụ thể năm 2011 là 25,9% xuống 22,1% năm 2015 và dự kiến tiếp tục giảm.

Nợ công đang tác động tiêu cực đến nền kinh tế, quy mô nợ công tăng theo tần suất và quy mô phát hành TPCP. Ngoài ra, lãi suất bị đẩy lên cao, gây ra khó khăn cho DN, từ đó là giảm nguồn thu của NSNN để thanh toán các khoản vay.

Theo khuyến nghị của WB và IMF, Việt Nam cần xây dựng và công bố kế hoạch tài khóa trung hạn nhằm cải thiện công tác quản lý ngân sách và nợ công theo hướng bền vững.

Giải pháp nâng cao quản lý nợ công giai đoạn 2016 – 2020

Nghiên cứu đã đưa ra một số giải pháp. Theo đó, cần nâng cao năng lực quản lý nợ công, phân công trách nhiêm rõ ràng; kiện toàn và nâng cao và hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý nợ công; hoàn thiện các công cụ quản lý.

Đồng thời, nâng cao hiệu quả sử dụng nợ công và đầu tư công, tăng cường kỷ luật NSNN và phối hợp chính sách; phát triển nội lực của nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng.

Quách Minh

Theo: ANTT/NĐT
Thích và chia sẻ bài viết này :
Tags :
Tin liên quan
Mọi góp ý tin bài cho chúng tôi vui lòng gửi vào email: antt.toasoan@gmail.com
Đang phổ biến