Dòng sự kiện:
Ngành ngân hàng có kế hoạch gì để thúc đẩy cho vay thời gian tới?
13/05/2019 10:38:08
Một trong các giải pháp là tiếp tục rà soát, cải tiến quy trình thủ tục vay vốn, nâng cao khả năng thẩm định để rút ngắn thời gian giải quyết cho vay, tạo điều kiện cho DN, người dân tiếp cận vốn dễ dàng hơn.

Ảnh minh hoạ

Tham luận tại Hội nghị kết nối ngân hàng – doanh nghiệp tại Đà Nẵng hôm 8/5 vừa qua, Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế của Ngân hàng Nhà nước, ông Nguyễn Quốc Hùng cho biết, 3 tháng đầu năm 2019, dư nợ tín dụng nền kinh tế tăng khoảng 3,19% so với cuối năm 2018. Nguồn vốn tíndụng được đẩy mạnh tập trung cho các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ, trong đó: Tín dụng đối với lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ tăng 3,63%,tín dụng đối với doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao tăng 7,25%, tín dụng đối với lĩnh vực xuất khẩu tăng 3,5%, tín dụng đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tăng 4,8%.

Tại thành phố Đà Nẵng, các TCTD trên địa bàn thành phố đã chủ động tìm kiếm và kết nối với doanh nghiệp để nắm bắt và tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong quan hệ tín dụng với ngân hàng, qua đó nâng cao khả năng tiếp cận nguồn vốn phục sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp trên địa bàn. Thông qua Hội nghị kết nối ngân hàng – doanh nghiệp, trong năm 2018, các TCTD tại Đà Nẵng đã cam kết cho vay mới gần 6.965 tỷ đồng, trong đó đã thực hiện giải ngân gần 4.682 tỷ đồng cho 1.249 doanh nghiệp trên địa bàn, thực hiện hỗ trợ giảm lãi suất cho 6 doanh nghiệp với tổng số nợ được hỗ trợ là trên 533 tỷ đồng.

Kết quả triển khai các chương trình, chính sách tín dụng và chương trình kết nối Ngân hàng – Doanh nghiệp đã góp phần giúp thành phố Đà Nẵng đạt tốc độ tăng trưởng tín dụng cuối năm 2018 là 26,59%, dư nợ cho vay DNNVV đạt 41.433 tỷ đồng, từ đó hỗ trợ tăng trưởng kinh tế của thành phố đạt 7,86%.

Bên cạnh kết quả đạt được, việc triển khai các chương trình, chính sách cho vay đối với doanh nghiệp còn một số khó khăn như:

Một là, xuất phát từ những khó khăn chung của kinh tế trong nước cũng như nền kinh tế toàn cầu, thị trường đầu ra thiếu ổn định trong khi các vấn đề biến đổi khí hậu, thiên tai, lũ lụt tác động tiêu cực đến hiệu quả sản xuất kinh doanh và thu nhập của DN, đã hạn chế khả năng tiếp cận vốn vay của doanh nghiệp và ảnh hưởng đến hiệu quả cho vay của các TCTD. 

Hai là, công tác xử lý tài sản đảm bảo tiền vay khi khách hàng không trả được nợ vay ngân hàng gặp nhiều khó khăn do trình tự, thủ tục liên quan đến khởi kiện, thi hành án để xử lý tài sản đảm bảo còn bất cập dẫn đến tâm lý thận trọng hơn trong cho vay của các TCTD. 

Ba là, nhiều doanh nghiệp, đặc biệt DNNVV chưa đáp ứng được điều kiện vay vốn do: (i) Năng lực tài chính còn hạn chế, thiếu vốn đối ứng; dự án, phương án sản xuất kinh doanh thiếu khả thi, sản xuất tự phát, khả năng hoàn vốn thấp, công tác hạch toán kế toán thiếu chuyên nghiệp, thông tin tài chính thiếu minh bạch,  trong khi lại thiếu tài sản đảm bảo ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. (ii) Các cơ chế hỗ trợ tiếp cận vốn cho DNNVV thông qua bảo lãnh của Quỹ bảo lãnh tín dụng địa phương, hỗ trợ vốn của Quỹ phát triển DNNVV thời gian qua chưa thực sự phát huy hiệu quả.

Trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả của các chương trình tín dụng đặc thù nhằm hỗ trợ DN, kịp thời tháo gỡ khó khăn và đáp ứng nhu cầu vốn vay cho sản xuất kinh doanh của DN, ngành Ngân hàng sẽ tập trung vào một số giải pháp:

Một là, tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt góp phần kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các DN; tiếp tục triển khai quyết liệt các nhiệm vụ và giải pháp tại Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia theo Nghị quyết 35, 19/NQ-CP và Nghị quyết 02, tạo điều kiện thuận lợi cho DN tiếp cận nguồn vốn ngân hàng.

Hai là, thực hiện các giải pháp hỗ trợ TCTD mở rộng tín dụng có hiệu quả, chú trọng vào các lĩnh vực sản xuất, lĩnh vực ưu tiên; đồng thời kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro, đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng.

Ba là, tiếp tục phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương các tỉnh, thành phố triển khai chương trình kết nối NH– ND để cùng với chính quyền các địa phương trực tiếp tháo gỡ đồng bộ những khó khăn, vướng mắc của DN trong quan hệ tín dụng với ngân hàng.

Bốn là, chỉ đạo các TCTD đẩy mạnh triển khai các chương trình, chính sách tín dụng theo chỉ đạo của Chính phủ, NHNN; tiếp tục rà soát, cải tiến quy trình thủ tục vay vốn, nâng cao khả năng thẩm định để rút ngắn thời gian giải quyết cho vay, tạo điều kiện cho DN, người dân tiếp cận vốn, góp phần hạn chế tín dụng đen; đồng thời, khuyến khích các TCTD phát triển và đa dạnghóacác sản phẩm tín dụng phù hợp với nhu cầu của doanh nghiệp cũng nhưcác sản phẩm dịch vụ ngân hàng, các sản phẩm phòng ngừa rủi ro lãi suất và tỷ giá nhằm giúp DN chủ động về vốn, tăng cường khả năng phòng ngừa rủi ro. 

Năm là, tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách và triển khai có hiệu quả các chương trình tín dụng đối với ngành, lĩnh vực, tín dụng chính sách theo chủ trương của Chính phủ; (ii) hoàn thiện và triển khai đồng bộ các chính sách hỗ trợ DNNVV được quy định trong Luật hỗ trợ DNNVV và các văn bản hướng dẫn Luật, đặc biệt là chính sách về bảo lãnh tín dụng cho DNNVV vay vốn TCTD, hỗ trợ vốn thông qua Quỹ phát triển DNNVV.

Theo ông Nguyễn Quốc Hùng, để các giải pháp, chương trình tín dụng tiếp tục phát huy hiệu quả trong việc hỗ trợ doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, NHNN đề nghị:

Đối với các Bộ, ngành liên quan: Triển khai đồng bộ các quy định tại Luật hỗ trợ DNNVV và các văn hướng dẫn Luật, đặc biệt là chính sách bảo lãnh tín dụng cho DNNVVvay vốn TCTD thông qua Quỹ bảo lãnh tín dụng theo quy định tại Nghị định 34/2018/NĐ-CP ngày 8/3/2018 của Chính phủ, và Nghị định về tổ chức và hoạt động của Quỹ Phát triển DNNVV.

Đối với UBND các tỉnh, thành phố: Tích cực triển khai có hiệu quả các chính sách hỗ trợ DNNVV quy định tại Luật hỗ trợ DNNVV và hướng dẫn của các Bộ, ngành trung ương, đặc biệt là cấp đủ vốn điều lệ cho Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNNVV để hỗ trợ các DN tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng; (ii) Đẩy nhanh tiến độ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản trên đất, thủ tục giao dịch bảo đảm và các thủ tục hành chính liên quan nhằm tạo điều kiện cho DN nhanh chóng hoàn tất hồ sơ vay vốn ngân hàng; 

(iii) Đồng thời, quan tâm đẩy nhanh tiến độ thi hành án và quá trình xử lý tài sản đảm bảo đối với các tài sản đã có quyết định thi hành án, hỗ trợ các TCTD trong việc thu hồi vốn; (iv) Tiếp tục quan tâm chỉ đạo triển khai có hiệu quả các chương trình chính sách tín dụng phục vụ phát triển kinh tế xã hội của địa phương, phối hợp với ngành Ngân hàng triển khai Chương trình kết nối – ngân hàng doanh nghiệp để kịp thời xử lý các khó khăn của người dân, doanh nghiệp trong quan hệ tín dụng.

Đối với các Hiệp hội ngành nghề, Hiệp hội DNNVV: Tiếp tục nâng cao vai trò, tầm ảnh hưởng của mình làm cầu nối giữa doanh nghiệp và các TCTD, hỗ trợ doanh nghiệp trong quan hệ tín dụng với các TCTD; Hỗ trợ doanh nghiệp về thông tin thị trường, thúc đẩy các hoạt động xúc tiến thương mại, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các doanh nghiệp thành viên.

Theo Trí thức trẻ

Theo: ANTT/NĐT
Thích và chia sẻ bài viết này :
Mọi góp ý tin bài cho chúng tôi vui lòng gửi vào email: antt.toasoan@gmail.com
Đang phổ biến