Dòng sự kiện:
Y khoa thế giới xôn xao về nghiên cứu thụ tinh ống nghiệm của Việt Nam
12/01/2018 10:45:33
Nhóm bác sĩ đã nghiên cứu ngẫu nhiên trên 782 phụ nữ vô sinh không do buồng trứng đa nang đang thụ tinh ống nghiệm.

Báo Thanh Niên đăng tải, ngày 11/1, tạp chí Y khoa nổi tiếng nhất thế giới New England Journal of Medicine (NEJM) đăng kết quả nghiên cứu của nhóm bác sĩ Việt Nam (VN) làm giới y khoa cả thế giới xôn xao.

Hàng loạt tờ báo lớn nhất thế giới như Reuters, Sydney Morning Herald, Tân Hoa Xã… đã đồng loạt đăng tải. Với kết quả của nghiên cứu này, phụ nữ vô sinh sẽ có nhiều lựa chọn hơn trong việc thụ tinh ống nghiệm.

Bác sĩ Ngọc Lan (áo đen, thứ 4 từ phải sang) và một số thành viên trong nhóm nghiên cứu. Ảnh: M.Đ

Đây là bài báo đầu tiên của ngành Sản phụ khoa VN trên NEJM, nghiên cứu hoàn toàn thực hiện tại VN. TS - BS Vương Thị Ngọc Lan (bộ môn Phụ sản Trường ĐH Y Dược TP.HCM) là tác giả chính và là người chủ trì dự án nghiên cứu.

NEJM là tạp chí được giới nghiên cứu lĩnh vực y khoa gọi là “thánh đường” bởi rất khó để đăng bài báo khoa học. Mỗi tuần, có hàng nghìn bài báo trên khắp thế giới gửi về NEJM nhưng chỉ khoảng 5% trong số đó được xuất bản. Có bài báo trên NEJM là mong ước lớn nhất của tất cả những nhà nghiên cứu y khoa trên thế giới.

Nhóm bác sĩ đã nghiên cứu ngẫu nhiên trên 782 phụ nữ vô sinh không do buồng trứng đa nang đang thụ tinh ống nghiệm (TTON). Kết quả cho thấy, việc chuyển phôi đông lạnh mang lại kết quả thành công tương đương như chuyển phôi tươi khi TTON.

Theo báo Vnexpress, Tiến sĩ Ngọc Lan cho biết, mỗi năm trên thế giới ước tính khoảng 1,5-2 triệu cặp vợ chồng làm thụ tinh ống nghiệm. Mỗi trường hợp đều được đặt ra câu hỏi nên chuyển phôi tươi hay trữ đông lạnh rồi sau đó mới rã đông để chuyển. Nhiều chuyên gia trên thế giới vẫn loay hoay đi tìm lời giải nên chọn phương pháp nào sẽ hiệu quả.

Các trung tâm thụ tinh ống nghiệm trước đây có xu hướng chuyển phôi tươi, sau đó một số báo cáo cho thấy kết quả tỷ lệ có thai giảm. Một số nơi chuyển sang đông lạnh phôi toàn bộ với hy vọng cải thiện kết quả có thai. Tuy nhiên việc đông lạnh phôi toàn bộ lại làm tăng chi phí và làm trì hoãn cơ hội có thai của người bệnh thêm vài tháng.

Xuất phát từ thực tế này, nhóm nghiên cứu của bác sĩ Ngọc Lan trao đổi về ý tưởng thực hiện nghiên cứu với giáo sư Ben Mol và giáo sư Robert Norman, Đại học Adelaide, Australia, vốn là hai chuyên gia đã hợp tác, hỗ trợ rất nhiều với đồng nghiệp Việt Nam trong lĩnh vực thụ tinh ống nghiệm. Hai giáo sư rất ủng hộ, bởi các bác sĩ Australia muốn thực hiện nghiên cứu này nhưng chưa thể triển khai do không có trung tâm thụ tinh ống nghiệm lớn, tập hợp đông bệnh nhân và nhóm bác sĩ đủ tâm huyết như Việt Nam.

Đầu năm 2015 các bác sĩ bắt đầu quá trình nghiên cứu trên 792 bệnh nhân. Kết quả cho thấy việc chuyển phôi tươi mang lại hiệu quả tương đương như đông lạnh phôi, chuyển phôi sau rã đông.

Bác sĩ Hồ Mạnh Tường, đồng tác giả nghiên cứu cho biết kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng. Cả hai phương pháp đều không làm thay đổi cơ hội có thai, nghĩa là không nên bắt buộc mọi người phải theo cách nào mà tùy từng trường hợp, hoàn cảnh để chọn lựa phù hợp. Hai phương pháp giúp tăng sự linh động, giảm chi phí, cá thể hóa điều trị cho các cặp vợ chồng mong con.

“Nhiều người lo lắng trữ đông khiến phôi yếu đi nên chuyển nhiều phôi tươi trong lần đầu, dẫn đến khả năng đa thai cao”, bác sĩ Tường phân tích.

Với kết quả nghiên cứu này, sau chu kỳ chuyển phôi tươi đầu tiên, bệnh nhân có thể đông lạnh tất cả phôi còn lại và chuyển sau đó một cách an toàn, hiệu quả. Người bệnh tăng cơ hội có thai mà giảm tối đa nguy cơ đa thai.

Sau hai năm nghiên cứu, tháng 3/2017, nhóm bác sĩ gửi báo cáo dài 200 trang tiếng Anh đến tạp chí The New England Journal of Medicine. Trải qua ba vòng thẩm định sơ bộ, ban biên tập tạp chí đã gửi phản biện dài 14 trang, yêu cầu nhóm nghiên cứu bổ sung, giải thích nhiều vấn đề. Sau hơn 10 lần email trao đổi, chỉnh sửa kéo dài trong 10 tháng, nghiên cứu mới được tạp chí này đồng ý công bố.

Giáo sư Ben Mol đánh giá cao khả năng thực hiện nghiên cứu của nhóm chuyên gia Việt Nam, góp phần mang lại lợi ích thiết thực cho bệnh nhân cũng như y bác sĩ trong lĩnh vực thụ tinh ống nghiệm thế giới.  Nhiều chuyên gia quốc tế rất bất ngờ khi các bác sĩ Việt Nam có thể tự lực ghi tên vào bản đồ nghiên cứu khoa học thế giới.

Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn, Viện Nghiên cứu Y khoa Garvan, giảng viên Đại học New South Wales tại Australia, thành viên hội đồng xét duyệt tạp chí The New England Journal of Medicine cho biết đây là lần đầu tiên một tác giả Việt Nam tự chủ trì, lên ý tưởng, thực hiện nghiên cứu và công bố. Giáo sư Tuấn xem đây là niềm vinh dự và cú hích rất lớn của giới khoa học trong nước.

"Bác sĩ Việt không tốn kém nhiều kinh phí vẫn có thể tự lực thực hiện những nghiên cứu tầm quốc tế chất lượng rất cao", giáo sư Tuấn đánh giá. Một vài nghiên cứu được công bố trước đây thường là do người Việt Nam sinh sống làm việc tại nước ngoài thực hiện, hoặc tác giả nước ngoài chủ trì như tại Đơn vị nghiên cứu Lâm sàng Đại học Oxford đặt tại Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới (TP HCM).

Xuân Tùng (t/h)

Theo: ANTT/NĐT
Thích và chia sẻ bài viết này :
Mọi góp ý tin bài cho chúng tôi vui lòng gửi vào email: antt.toasoan@gmail.com
Đang phổ biến