Dòng sự kiện:
Thách thức mới của các ngân hàng trung ương châu Á
07/10/2022 10:38:43
Từ Nhật Bản đến Thái Lan, các chính phủ đang chật vật xoay xở với lạm phát tăng cao, sự hỗn loạn trên thị trường ngoại hối và bom nợ doanh nghiệp phình to.

Theo Nikkei Asia, vào đầu năm 2020, các nền kinh tế trên thế giới chao đảo vì đại dịch Covid-19. Những đợt phong tỏa khiến người dân bị mắc kẹt trong nhà. Để hỗ trợ các doanh nghiệp đang trượt đến bờ vực phá sản, các cơ quan quản lý tiền tệ đồng loạt hạ lãi suất và tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp.

Trong vỏn vẹn 2 năm 2020 và 2021, bảng cân đối kế toán của các ngân hàng trung ương lớn nhất thế giới đã được mở rộng thêm 10.000 tỷ USD.

Hai năm sau, đời sống kinh tế dần trở lại bình thường. Nhưng các chính phủ và doanh nghiệp trên khắp thế giới đang đối mặt với vấn đề mới. Đó là lạm phát, nợ nần và những bất ổn trên thị trường hối đoái, buộc các ngân hàng trung ương phải giành lại quyền kiểm soát.

Thiếu thống nhất

Bangko Sentral ng Pilipinas của Philippines và Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ đã trở thành một trong những ngân hàng thuộc nhóm “diều hâu” nhất trong khu vực. Họ đã nâng lãi suất chính sách lên lần lượt 225 và 190 điểm cơ bản trong năm nay khi đồng peso và đồng rupee rơi xuống mức thấp nhất so với đồng USD.

Trong khi đó, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBoC) lại khá ôn hòa khi cắt giảm lãi suất của công cụ cho vay trung hạn (MLF) kỳ hạn 1 năm vào tháng 8. Điều này cho phép các ngân hàng thương mại giảm lãi suất huy động vào ngày 15/9 và nới lỏng mức sàn đối với lãi suất thế chấp cho người vay mua nhà lần đầu.

Điều này diễn ra trong bối cảnh lạm phát cơ bản của Trung Quốc ở mức 0,8% vào tháng 8.

Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (BOJ) cũng đã thực hiện một cách tiếp cận hoàn toàn khác so với các ngân hàng trung ương châu Á khác. Với lạm phát lõi (không bao gồm giá năng lượng và thực phẩm) vẫn ở mức 1,6% trong tháng 8, BOJ đã giữ lãi suất gần bằng 0.

Haruhiko Kuroda, Thống đốc Ngân hàng Trung ương Nhật Bản, tại hội nghị chuyên đề kinh tế Jackson Hole ở Moran, Wyoming, Mỹ vào ngày 26/8. Ảnh: Getty Images.

Đồng yen đã giảm 20% so với USD trong năm nay khi các nhà đầu tư chuyển từ Nhật Bản sang Mỹ để hưởng lãi cao hơn.

Tại Thái Lan, các cơ quan quản lý tiền tệ vẫn tập trung vào mức nợ hộ gia đình cao trong nền kinh tế, ở mức 91% GDP, cao nhất so với bất kỳ quốc gia đang phát triển nào.

Nhưng ủy ban chính sách tiền tệ của Thái Lan cuối cùng đã cúi đầu trước lạm phát vào tháng 8, nâng lãi suất chủ chốt lần đầu tiên kể từ năm 2018 từ mức thấp kỷ lục 0,5% lên 0,75%.

Thái Lan đã tăng lãi suất 0,25 điểm phần trăm vào tháng 9 và được dự báo đưa ra động thái tương tự trong tháng 11.

Ngay cả ở Hàn Quốc, nơi có lịch sử thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ cũng không mấy khả quan. Hàn Quốc là nền kinh tế lớn đầu tiên tăng lãi suất vào tháng 8/2021, khi lạm phát cơ bản của nước này chỉ ở mức 1,3%.

Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc (BOK) đã tăng lãi suất thêm 50 điểm cơ bản vào tháng 7 năm nay và 25 điểm cơ bản vào tháng 8.

Tránh vết xe đổ của Nhật Bản

Những biện pháp trong năm 2020 được đưa ra khi các cơ quan quản lý đã bị dồn vào đường cùng. Yukihiro Kitamura, một nhà tư vấn doanh nghiệp nhỏ và cựu giám đốc ngân hàng, nhớ lại khi Nhật Bản thực hiện một chương trình lớn bảo đảm các khoản vay cho doanh nghiệp nhỏ.

Bảng cân đối kế toán của BOJ đã tăng 26% trong khoảng thời gian từ tháng 1/2020 đến tháng 12/2021 lên 1,3 lần GDP của Nhật Bản (để so sánh, bảng cân đối của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ chỉ bằng 38% GDP của Mỹ).

Nếu điều này dẫn đến lạm phát, đó thực sự đã được coi là một thành công chính sách lớn ở Nhật Bản. Nước này trong nhiều năm đã cố gắng đảo ngược gần hai thập kỷ giảm phát bằng chính sách tiền tệ nới lỏng.

Nhưng thay vì lạm phát, tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản vẫn thấp bất chấp nỗ lực bơm tiền của ngân hàng trung ương.

Đồng yen Nhật giảm xuống mức thấp lịch sử so với đồng USD vào cuối tháng 9, trong bối cảnh kinh tế hỗn loạn khắp châu Á. Ảnh: Kosuke Imamura.

Theo chương trình cho vay dành cho doanh nghiệp nhỏ, bất kỳ công ty nhỏ nào tuyên bố doanh số bán hàng sụt giảm ít nhất 5% đều đủ điều kiện để được vay trong thời hạn lên đến 20 năm và thời gian trả chậm lên đến 5 năm.

Các khoản lãi suất từ ​​1% đến 1,5% đã được chính quyền địa phương hỗ trợ. Các quy định đã được nới lỏng và thủ tục cũng đơn giản hơn.

Các chương trình cho vay được đảm bảo nhanh chóng tăng vọt lên 42 nghìn tỷ yên (290 tỷ USD) vào cuối năm 2020. Các ngân hàng địa phương đổ xô cho các doanh nghiệp nhỏ vay tiền vì biết rằng khoản vay của họ sẽ được chính phủ hậu thuẫn.

Các ngân hàng thậm chí còn cho các công ty không bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi Covid-19 vay tiền, tuyên bố rằng họ nên tận dụng các khoản vay được trợ cấp và đảm bảo. Số tiền này đôi khi được chuyển thành đầu tư chứng khoán hoặc mua bất động sản.

Lãi suất chính sách ở các quốc gia châu Á. Ảnh: Nikkei Asia.

Chương trình đã thành công trong việc giữ cho các doanh nghiệp tồn tại tốt quá mức kỳ vọng. Vào năm 2021, số vụ phá sản doanh nghiệp ở Nhật Bản đã giảm xuống mức thấp nhất trong hơn nửa thế kỷ qua bất chấp đại dịch. Nhưng các doanh nghiệp nhỏ đang mắc nợ nhiều hơn, ngay cả khi doanh số bán hàng vẫn chưa phục hồi về mức trước đại dịch.

Theo dữ liệu từ BOJ và Bộ Tài chính, doanh số bán hàng từ tháng 4 đến tháng 6 tại các doanh nghiệp nhỏ thấp hơn 9,2% so với mức năm 2019, trong khi các khoản nợ tăng 8,5%.

Tương tự như vậy, nền kinh tế Trung Quốc bị ảnh hưởng sâu sắc bởi khoảng 80.000 tỷ nhân dân tệ tiền mới được tạo ra khi bảng cân đối kế toán của PBoC tăng thêm 3,6% kể từ năm 2020.

Nợ khu vực phi tài chính tư nhân, hoặc của các hộ gia đình và các tập đoàn phi tài chính, đã duy trì trên 200% GDP của Trung Quốc kể từ năm 2016.

Giới quan sát cảnh báo Trung Quốc có thể rơi vào vết xe đổ của Nhật Bản vào năm 1989, khi các khoản nợ tăng vọt trong bối cảnh bong bóng thị trường chứng khoán và nhà ở.

Ngay sau đó, BOJ đã tăng lãi suất chiết khấu từ 2,5% lên 6%, đẩy đất nước vào tình trạng giảm phát và đình trệ. Giá đất thương mại ở Tokyo đã giảm 83% từ năm 1991 đến 2001.

Các ngân hàng chứng kiến ​​giá trị tài sản thế chấp của họ gần như vô giá trị, một số mất khả năng thanh toán. Điều này dẫn đến một cuộc khủng hoảng hệ thống tài chính vào năm 1998.

Ngày nay, "Nhật Bản hóa" là một câu chuyện mà Trung Quốc cần cảnh giác. “Trung Quốc nghiên cứu rất kỹ quá khứ của Nhật Bản để không lặp lại những sai lầm mà người hàng xóm đã mắc phải”, Umezawa, chiến lược gia của Pictet Japan, bình luận.

Suy nghĩ lại

Trên toàn cầu, lạm phát đang gia tăng, nhưng cường độ rất khác nhau. Lạm phát cơ bản, không bao gồm các mặt hàng thực phẩm và năng lượng, ở mức 6,3% tại Mỹ trong tháng 8, cao hơn nhiều so với mục tiêu 2% của Cục Dự trữ Liên bang.

Tương tự như vậy ở khu vực sử dụng đồng euro, lạm phát cơ bản đã tăng ở mức 5,5%, trong khi ở châu Á, nó dao động từ 4% ở Hàn Quốc đến 0,8% ở Trung Quốc.

Tuy nhiên, vẫn có sự bất đồng cơ bản giữa các nhà hoạch định chính sách về điều gì đang gây ra lạm phát và cách khắc phục nó.

Nhật Bản đã nhận thấy dấu hiệu của sự tháo chạy vốn kể từ khoảng tháng 7, khi nước này gánh các khoản nợ chính phủ khổng lồ và giữ lãi suất ở mức thấp nhất.

Ví dụ, Ngân hàng Shinsei đã chứng kiến ​​số dư tiền gửi cố định bằng ngoại tệ của mình tăng 65% so với đầu năm nay lên 115 tỷ yen (794 triệu USD) vào tháng 8 sau khi bắt đầu cung cấp lãi suất 2,5% cho các khoản tiền gửi bằng USD trong 6 tháng, so với chỉ 0,002% mà các ngân hàng Nhật Bản khác đưa ra đối với tiền gửi bằng đồng yen.

Phản ứng dữ dội của thị trường tài chính gần đây cho thấy khó khăn trong việc tạo ra tăng trưởng kinh tế dài hạn mà không gây ra các đợt tăng giá lớn hoặc lạm phát giá tài sản.

"Ở các nền kinh tế châu Á, mối quan tâm của các ngân hàng trung ương là lạm phát và tình trạng vốn chảy khỏi đất nước", Fukumoto, giáo sư kinh tế tại Đại học Kinh tế Osaka, người từng là tổng giám đốc bộ phận quốc tế của BOJ, nói.

Ở các nền kinh tế châu Á, mối quan tâm của các ngân hàng trung ương là lạm phát và tình trạng vốn chảy khỏi đất nước

Fukumoto, giáo sư kinh tế tại Đại học Kinh tế Osaka

Ông giải thích các nước G7 tuân thủ các nguyên tắc tự chủ tiền tệ và tự do luân chuyển vốn với chi phí kiểm soát tỷ giá hối đoái. Nhưng các nước đang phát triển, vì nhu cầu đầu tư nước ngoài, thường phải ưu tiên ổn định tỷ giá hối đoái với chi phí tự chủ về tiền tệ.

Trung Quốc cũng gặp vấn đề tương tự. Trong khi đồng nhân dân tệ không thể chuyển đổi hoàn toàn, việc vay vốn vẫn là một vấn đề.

Công việc của PBOC rất phức tạp bởi nhiệm vụ của nó là giữ cho đồng nhân dân tệ ổn định. Một chính sách tiền tệ quá nới lỏng có thể làm gia tăng chênh lệch lãi suất giữa Mỹ và Trung Quốc, khiến đồng nhân dân tệ trượt giá so với đồng USD.

Từ năm 2014 đến năm 2016, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc giảm 1.000 tỷ USD xuống 3.000 tỷ USD do nguồn vốn tháo chạy khỏi đất nước trong bối cảnh lo ngại về sự mất giá của đồng nhân dân tệ.

Với tăng trưởng kinh tế trì trệ, PBOC hiện phải tạo ra một ranh giới giữa kích thích nền kinh tế và khuyến khích dòng vốn.

Vào ngày 28/9, PBOC đã để đồng nhân dân tệ giảm quá mức hỗ trợ quan trọng trong năm 2019 là 7,18 nhân dân tệ đổi 1 USD xuống 7,23 nhân dân tệ đổi 1 USD, mức yếu nhất kể từ tháng 1/2008.

Nhưng vào ngày 27/ 9, PBOC cũng đưa ra cảnh báo chống lại việc bán tháo nhân dân tệ.

Chính sách tiền tệ ở Hàn Quốc cũng cho thấy những thách thức trong việc cân bằng hỗ trợ cho nền kinh tế và tránh lạm phát giá tài sản.

Kể từ cuộc khủng hoảng vì Covid-19 vào năm 2020, giá chung cư đã tăng 18% ở Seoul, cho đến nay là mức tăng lớn nhất trong số các thành phố lớn của châu Á, theo dữ liệu từ Viện Bất động sản Nhật Bản.

Lãi suất tăng sẽ rất được quan tâm trên thị trường nhà ở vì khoảng 80% các khoản thế chấp có lãi suất thả nổi.

Thống đốc ngân hàng trung ương mới của Hàn Quốc, Rhee Chang-yong, phát biểu trong lễ nhậm chức ở Seoul vào ngày 21/4. Ảnh: Reuters.

Do đó, khi Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc tăng lãi suất, các khoản thanh toán thế chấp cũng tăng theo. Nhưng các nhà hoạch định chính sách của Hàn Quốc hiện không còn lựa chọn nào khác ngoài việc kiềm chế sự gia tăng nợ của khu vực tư nhân.

Theo Viện Tài chính Quốc tế, một tổ chức tư vấn thương mại có trụ sở tại Washington, Hàn Quốc là quốc gia châu Á duy nhất có nợ hộ gia đình vượt quá GDP, ở mức 102%.

Các nhà phân tích cho rằng BOK hiện ưu tiên kiểm soát lạm phát hơn tăng trưởng kinh tế.

"Ngân hàng trung ương đang chịu áp lực thắt chặt chính sách tiền tệ, với lạm phát ở mức cao nhất kể từ tháng 11/1998 và đồng won của Hàn Quốc dao động ở mức yếu nhất kể từ tháng 4/2009", Eric Chiang, nhà kinh tế liên kết tại Moody's Analytics, cho biết.

Tác giả: Diệu Thanh

Theo: Zing News
Thích và chia sẻ bài viết này :
Mọi góp ý tin bài cho chúng tôi vui lòng gửi vào email: antt.toasoan@gmail.com
Đang phổ biến